Bản án 91/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 91/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:93/2018/TLST - HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/ 2018/ HSST – QĐ ngày 15 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo.

Lường Văn H, sinh năm 1983 tại xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKNKTT: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Đoàn thể: không; Đảng phái: không; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Thăng (đã chết) và bà Lò Thị Hiền, sinh năm 1955; có vợ Lò Thị Thiến, sinh năm 1985, bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền sự: không; Tiền án: Ngày 06/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Mường La xử phạt 10 tháng tù giam, về tội: Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 21/7/2018 đến nay, có mặt.

- Người bị hại:

1. Chị Lường Thị Hưởng, sinh năm 1986. Trú quán: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

2. Anh Đỗ Văn Nghĩa, sinh năm 1985. Trú quán, thôn X, xã Y, huyên Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Hiện nay tạm trú: Tiểu khu X, thị trấn Y, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

-Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan - Trợ giúp viên – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ sáng ngày 21/7/2018 Lường Văn H, sinh năm 1985, trú tại bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La đang ở nhà tại bản Luồng, xã Mường Chùm, huyện Mường La thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong nhà đem bán lấy tiền mua Heroine. Sau đó H đi sang giường ngủ của Lường Thị Hưởng (em gái của H) sinh năm 1986, hiện sống cùng nhà với H để lục tìm tài sản thì thấy trong ví của Hưởng có 01 chìa khóa xe máy và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy. Quan sát thấy xe mô tô BKS: 90B2 – 39721 của Hưởng đang dựng ở sân trước nhà, còn Hưởng đang ngồi giặt quần áo cạnh bể nước. Lợi dụng lúc Hưởng đi vào trong nhà không để ý H liền cắm chìa khóa và điều khiển xe đi ra khỏi cổng, nghe tiếng xe máy Lường Thị Hưởng chạy ra và hô “không được lấy xe đi” nhưng H không trả lời mà vẫn tiếp tục điều khiển xe đi đến nhà anh Hoàng Văn Mến, sinh năm 1989, trú tại bản Chiềng, xã Chiềng Chăn, huyện Mai Sơn để cầm cố chiếc xe vừa trộm cắp được với số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng). Do không có đủ tiền nên Mến đưa cho H 2.000.000đ (Hai triệu đồng) trước, sau đó Mến dẫn H đến nhà anh Hà Văn Khoa, sinh năm 1970, trú tại bản Tà Ỉu, xã Pắc Ngà, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La để vay số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) trả cho H. Sau khi nhận đủ số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) H tham gia đánh bạc cùng những người không quen biết tại nhà anh Khoa và bị thua hết 4.000.000đ(Bốn triệu đồng) nên H không chơi nữa và đến gặp Khoa để hỏi mua Heroine: “Anh có hàng không”, Khoa trả lời: “Lấy bao nhiêu?”, H nói: “Cho em hai phân”, Khoa trả lời: “Hai phân là một triệu tám”. H đồng ý rồi đưa cho anh Khoa số tiền là 1.800.000đ(Một triệu tám trăm nghìn đồng) và nhận từ Khoa 01(Một) gói Heroine được gói bằng nilon màu hồng. Sau khi mua được Heroine H đi thuyền từ bản Tà Ỉu, xã Pắc Ngà, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La đến bản Kiềng, xã Chiềng Chăn, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La rồi đi vào khu vực bụi cây ven đường lấy một ít Heroine vừa mua được ra để sử dụng (Hít) sau đó H gói số Heroine còn lại vào vỏ gói ban đầu và cất vào túi quần bên phải đang mặc trên người để đi về. Khi đi đến khu vực đầu dốc bản Nà Nong 2, xã Mường Chùm thì bị Công an xã Mường Chùm bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm;

-01 (Một) gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng do Lường Văn H giao nộp và khai là heroin

- 210.000đ, gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) có số seri là BM 11451852 và 01 tờ tiền có mệnh giá 10.000đ(Mười nghìn đồng) có số seri là: FN17530813 thu giữ của Lường Văn H.

Ngày 23/7/2018, tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều (CSĐT) Công an huyện Mường La đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Lường Văn H. Kết quả xác định: 01 (Một) gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng có khối lượng 1,80 (Một phẩy tám mươi) gam, lấy ra 0,13 (Không phẩy mười ba) gam làm mẫu giám định ký hiệu H1, còn lại 1,67 (Một phẩy sáu mươi bẩy) gam ký hiệu H để nhập kho vật chứng làm vật chứng của vụ án. Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La đã ra Quyết định trưng cầu giám định ma túy số 67/QĐTCGĐ đối với mẫu giám định H1, có phải là ma túy không, là loại ma túy gì, có trọng lượng là bao nhiêu.

Ngày 27/7/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã ban hành Kết luận giám định số 912 kết luận: Mẫu gửi giám định H1 là ma túy; loại Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Lường Văn H là 1,80 gam; loại Heroine.

Ngày 08/8/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 72/QĐTCGĐ về tiền giấy đối với 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) có số seri là BM 11451852 và 01 tờ tiền có mệnh giá 10.000đ(Mười nghìn đồng) có số seri là: FN17530813 thu giữ của Lường Văn H, là tiền thật hay tiền giả.

Tại Kết luận giám định số 359 ngày 15/8/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh kết luận: 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) có số seri là BM 11451852 và 01 tờ tiền có mệnh giá 10.000đ(Mười nghìn đồng) có số seri là: FN1753081. Là tiền thật.

Ngày 16 tháng 8 năm 2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La đã ra yêu cầu định giá tài sản số: 23/YCĐGTS giá trị thực tế của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu sơn: xanh, BKS: 90B2-397.21, số máy: HC09E0047454, số khung: 09083Y047358. Xe có 01 gương chiếu hậu ở bên trái. Xe cũ đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận số: 19/KLGĐTS ngày 16/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La xác định giá trị thực tế của tài sản cần định giá là: 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng)

Do có các hành vi trên Tại cáo trạng số 510/CT-VKSML ngày 05/11/2018 truy tố bị cáo Lường Văn H, về tội: Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173

BLHS và tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lường Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; điểm h Điều 52; khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự (BLHS).

Xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 09 đến 12 tháng tù giam, về tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 24 đến 30 tháng tù giam, về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền 6.000.000đ cho Hoàng Văn Mến.

Chấp nhận việc anh Đỗ Văn Nghĩa, chị Lường Thị Hưởng không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín: Mặt trước ghi: Vật chứng vụ Lường Văn H – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt ngày 21/7/2018 tại Mường Chùm, Mường La, Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 02 dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì (gồm: Vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 1,67 gam heroine).

Tịch thu sung qũy Nhà nước số tiền 210.000đ do bị cáo phạm tội mà có. Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La đa trao trả chiếc xe Honda BKS 90B2 – 397.21 cho chủ sở hữu anh Đỗ Văn Nghĩa.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo là dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo còn có hai con còn rất nhỏ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 BLHS.

Bị cáo Lường Văn H nhất trí với ý kiến của người bào chữa và bị cáo, người bị hại , người bào chữa cho bị cáo, không ai có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đê nghi Hôi đông xet xư xem xet giam nhe hinh ph.at

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người bào chữa cho bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lường Văn H khai nhận vào khoảng 09 giờ ngày 21/7/2018, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc mô tô nhãn hiệu HONDA biển kiểm soát 90B2 – 39721 của gia đình chị Lường Thị Hưởng, anh Đỗ Văn Nghĩa có giá trị 7.500.000đ mang đi cầm cố lấy tiền tiêu sài và khi bị phát hiện bắt giữ bị cáo đang tàng trữ trái phép một gói heroine có trọng lượng 1,80 gam để sử dụng dần cho bản thân.

Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi trộm cắp tài sản và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc mô tô của gia đình anh Đỗ Văn Nghĩa, chị Lường Thị Hưởng, đủ yếu tố cấu thành tội: Trộm cắp tài sản, được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, có khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm. Bị cáo còn tàng trữ trái phép một gói heroine có trọng lượng 1,80 gam, đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm, với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS “tái phạm” Cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Mường La, truy tố đối với bị cáo Lường Văn H là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3].Về nhân thân: Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, do nghiện ma túy và lười lao động, nên bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Trước lần phạm tội nay bị cáo đã có 01 tiên án về tội trôm cắp tài sản và đã bị xử phạt 10 tháng tù giam, nhưng sau khi cải tạo, trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài H cho bản thân mà vẫn cố tình phạm tội. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, để đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục, trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS

[5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Xét thấy bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại anh Đỗ Văn Nghĩa, chị Lường Thị Hưởng đã nhận được tài sản bị mất và tại phiên tòa anh Nghĩa, chỉ Hưởng không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và không yêu cầu Tòa án giả quyết. Nên Hội đồng xét xư không xem xét

Anh Hoàng Văn Mến là người đã cho bị cáo cầm cố chiếc xe máy với số tiền 6.000.000đ, do không biết chiếc xe máy bị cáo trộm cắp mà có. Anh Hoàng Văn Mến có đơn xin xét xử vắng mặt và đề nghị bị cáo hoàn trả số tiền 6.000.000đ cho anh. Xét thấy, việc trao đổi giữa anh Mến và bị cáo là ngay tình. Cần buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền 6.000.000đ cho anh Hoàng Văn Mến.

[7] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b,c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Một phong bì Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín: Mặt trước ghi: Vật chứng vụ Lường Văn H – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt ngày 21/7/2018 tại Mường Chùm, Mường La, Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 02 dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì (gồm: Vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 1,67 gam heroine). Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành. Cần tịch thu tiêu hủy.

- Một tờ tiền mệnh giá 200.000đ và một tờ tiền mệnh giá 10.000đ là tiền bị cáo phạm tội mà có, do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Chiếc xe máy Honda wave 𝛼 do bị cáo trộm của gia đình anh Đỗ Văn Nghĩa, chị Lường Thị Hưởng. Ngày 05/10/2018 Công an huyện Mường La đã trao trả chiếc xe cho chủ sở hữu anh Đỗ Văn Nghĩa, chị Lường Thị Hưởng là có cơ sở, cần chấp nhận.

Đối với Hà Văn Khoa, sinh năm 1970, trú tại bản Tà Ỉu, xã Pắc Ngà, huyện Bắc Yên theo lời khai của bị cáo Lường Văn H là người đã bán Heroine cho H vào ngày 21/7/2018, cùng ngày H cùng một số đối tượng khác đánh bạc tại nhà của Khoa. Tuy nhiên qua điều tra xác minh Hà Văn Khoa không thừa nhận được thực hiện hành vi bán Heroine cho H và không có ai đánh bạc tại nhà Khoa, hiện Khoa không có mặt tại địa phương, việc trao đổi mua bán ma túy giữa Khoa và H không có ai biết hoặc chứng kiến. Ngoài lời khai của H Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La không thu thập được tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý đối với Hà Văn Khoa.

Đối với Hoàng Văn Mến là người cho Lường Văn H cầm cố 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave 𝛼 BKS 90B2-379.21 với số tiền 6.000.000đ. Tuy nhiên quá trình trao đổi, thỏa thuận về việc cẩm cố xe, Mến không biết chiếc xe do H trộm cắp mà có, H và Mến cũng không có hứa hẹn trước về việc tiêu thụ tài sản do H trộm cắp mà có. Do đó không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Văn Mến.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự.

1.Tuyên bố bị cáo Lường Văn H, phạm tội: Trộm cắp tài sản và tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”

Xử phạt Lường Văn H 09 (chín) tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt Lường Văn H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 33 (ba mươi ba) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ (ngày 21/7/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

2.Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) cho Hoàng Văn Mến.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín: Mặt trước ghi: Vật chứng vụ Lường Văn H – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt ngày 21/7/2018 tại Mường Chùm, Mường La, Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 02 dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì (gồm: Vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 1,67 gam heroine).

Tịch thu sung qũy Nhà nước số tiền 210.000đ (Hai trăm mười nghìn đồng)do bị cáo phạm tội mà có.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2018 giữa Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

3. Về án phí: khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 27/11/2018.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ khi nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:91/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về