Bản án 90/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 90/2021/HS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 100/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Lý N, sinh năm 1992; nơi sinh: S; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh S; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Đ và bà Lý Thị N; có vợ tên Thạch Thị Sóc K và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/12/2020 sau đó tạm giam cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 2001; địa chỉ: Khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 26/12/2020, Công an phường H, thị xã T, tỉnh B tổ chức tuần tra vũ trang trên địa bàn phường. Khi đến khu vực gần nhà nghỉ T, khu phố 1, phường H lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính đối với hai đối tượng nghi vấn là Lý N và Trần Văn Đ. Lúc này Lý N lấy trong người giao nộp cho Công an gồm: 01 gói thuốc lá bên trong chứa 02 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có 10 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. N khai nhận tinh thể màu trắng trong các gói nylon hàn kín là ma túy do N mua của người thanh niên không rõ nhân thân lai lịch để bán cho các con nghiện và sử dụng cho bản thân, N đang đến gặp để bán ma túy cho Đ nhưng chưa giao được thì bị phát hiện bắt giữ. Đ khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên trước đó gọi điện cho N hỏi mua 600.000 đồng ma túy nhưng chưa mua được thì bị phát hiện. Công an phường H tiến hành niêm phong các gói nylon chứa tinh thể màu trắng nêu trên, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N và thu giữ, đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 gói thuốc lá bên trong chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.

- 01 túi nylon miệng kéo bên trong có 10 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s màu trắng của Lý N.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen của Đ.

- 01 xe mô tô biển số 61C-603.78 của N.

- Số tiền 600.000 đồng.

- Chứng minh nhân dân mang tên Lý N.

Công an phường H lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Lý N cùng hồ sơ, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lý N. Qua khám xét thu giữ: 01 ống thủy tinh màu trắng.

Quá trình điều tra Lý N và Trần Văn Đ cùng khai nhận: N đã bán ma túy cho Đ khoảng 07 lần, mỗi lần bán từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, thời gian cụ thể không rõ.

Tại bản kết luận giám định số 812/MT-PC09 ngày 04/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự kết luận: Tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon hàn kín có khối lượng 0,2286g là loại methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 09 gói nylon hàn kín có khối lượng 3,5431g là loại methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín có khối lượng 4,5341g là loại methamphetamine.

Xe mô tô nhãn hiệu SUPERHALIM, màu đỏ đen, biển số 61C-603.78, số khung VHMDCG034UM004762, số máy VHMCT100E2004762. Kết quả điều tra xác định xe mô tô trên do bà Bồ Thị S đứng tên đăng ký sở hữu. Bà S khai: xe mua vào năm 2005 đến năm 2016 bán lại cho ông Lê Văn M với giá 4.000.000 đồng, việc mua bán không làm thủ tục sang tên theo quy định. Ông Mỹ khai: xe mô tô trên do ông Bùi Văn D nhờ ông M mua dùm, sau khi mua xong ông M giao xe lại cho ông D quản lý và sử dụng. Ông D khai: Xe mô tô trên ông D sử dụng đến năm 2018 bán cho một người đàn ông tên Tuấn qua mạng xã hội Facbook với giá 4.000.000 đồng, việc mua bán cũng không làm thủ tục sang tên theo quy định. Bị cáo N khai: Xe mô tô trên N mượn của một người đàn ông tên N để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả.

Cáo trạng số 103/CT-VKSTU ngày 14/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo Lý N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo từ 09 năm đến 10 năm tù.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Sài Gòn; tịch thu sung ngân sách Nhà nước gồm: số tiền 600.000 đồng; 01 xe mô tô kiểu dáng Wave biển số 61C1-603.78 màu xanh đen có số khung 034UM004762 số máy 100E2004762 và 01 điện thoại di động Iphone 5s; trả cho ông Trần Văn Đ: 01 điện thoại di động hiệu Masstel; trả cho bị cáo chứng minh nhân dân mang tên bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, đồng thời xác định số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy là 4.800.000 đồng; tại phần tranh luận không có ý kiến gì; lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2020 đến khi bị bắt quả tang ngày 26/12/2020 Lý N có hành vi mua ma túy về để sử dụng đồng thời phân nhỏ ra bán cho các con nghiện khác thu lợi bất chính, chỉ riêng bán cho Trần Văn Đ là 07 lần, khi bắt quả tang thu giữ trong người bị cáo 8,3058g ma túy loại Methamphetamine. Thời điểm thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện, làm mất trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đối với lượng ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 vỏ bao thuốc lá Sài Gòn không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Số tiền 600.000 đồng có được do mua bán ma túy, xe mô tô kiểu dáng Wave biển số 61C1-603.78 màu xanh đen có số khung 034UM004762 số máy 100E2004762 và 01 điện thoại di động Iphone 5s là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước; đối với 01 điện thoại di động hiệu Masstel không phải là phương tiện phạm tội, trả lại cho ông Trần Văn Đ; đối với chứng minh nhân dân mang tên bị cáo là giấy tờ cá nhân không liên quan hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo tiếp tục sử dụng. Đồng thời buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính để sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lý N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ các điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lý N 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 8,0386 g ma túy còn lại sau giám định trong bì thư niêm phong ký hiệu 812/PC09, 01 vỏ bao thuốc lá Sài Gòn.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 600.000 đồng, xe mô tô kiểu dáng Wave biển số 61C1-603.78 màu xanh đen có số khung 034UM004762 số máy 100E2004762 và 01 điện thoại di động Iphone 5s.

- Buộc bị cáo phải nộp số tiền thu lợi bất chính 4.200.000 đồng (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo: Chứng minh nhân dân mang tên bị cáo.

- Trả lại cho ông Trần Văn Đ: 01 điện thoại di động hiệu Masstel.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về