Bản án 90/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 90/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn D sinh ngày 18 tháng 7 năm 1973 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 2, K, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ là Bùi Thị C và 01 con; tiền sự: 01 tiền sự tại Quyết định số 23/QĐ-TA ngày 24/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa thi hành); tiền án: 01 tiền án tại bản án số 59/2008/HSST ngày 16/9/2008 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 10 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp hình phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 41/2008/HSST ngày 24/7/2008 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng buộc Phạm Văn D phải chấp hành hình phạt chung là 13 năm tù, đã thi hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2019; nhân thân có 05 tiền án đã được xóa án tích: Bản án số 24/HS ngày 22/3/1991 Tòa án nhân dân huyện An Hải (nay là huyện An Dương), thành phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (không xác định giá trị tài sản chiếm đoạt); Bản án số 13/HS ngày 12/2/1993 Tòa án nhân dân huyện An Hải (nay là huyện An Dương), thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản cho người khác phạm tội mà có; Bản án số 1509 ngày 24/10/1995 Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (tài sản chiếm đoạt trị giá 550.000đồng); Bản án số 344/HSST ngày 14/8/1998 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (tài sản chiếm đoạt giá trị 600.000đồng); Bản án số 41/2008/HSST ngày 24/7/2008 Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt trị giá 600.000đồng); bị tạm giữ từ ngày 15 tháng 7 năm 2020, tạm giam từ ngày 22 tháng 7 năm 2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ ngày 15/7/2020 tại thôn Đ, N, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng, Công an xã T bắt quả tang Phạm Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng đựng ở bao thuốc lá Vinataba trong túi quần bên trái và 04 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng để trong ví màu nâu ở túi quần bên phải của D. Theo D khai nhận đó là Heroin mua về để sử dụng. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.

Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành thủ tục giám định tinh thể màu trắng ghi là chất ma túy đã thu giữ của Phạm Văn D. Tại Kết luận giám định số 440/KLGĐ ngày 20/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Văn D 01 túi có khối lượng 0,26 gam và 04 túi có khối lượng 1,49 gam, tổng cộng 1,75 gam là Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn D khai nhận: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, D đi từ nhà đến khu vực ngã tư An Dương, thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 05 túi ma túy với giá 1.900.000 đồng, trong đó 04 túi với giá 300.000 đồng/túi và 01 túi với giá 700.000đồng với mục đích sử dụng cho bản thân. Sau đó, D cất túi ma túy với giá 700.000 đồng vào bao thuốc lá Vinataba trong túi quần bên trái còn 04 túi ma túy còn lại cất trong ví da màu nâu để ở túi quần bên phải rồi đi về. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, Công an xã T mời D lên trụ sở để thi hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 23/QĐ ngày 24/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương. Quá trình làm việc tại trụ sở, Công an yêu cầu D bỏ tất cả đồ vật trong người ra và sau đó đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét chỗ ở của Phạm Văn D nhưng không thu được đồ vật, tài liệu gì.

Cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn D khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Văn D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba, 01 ví da màu nâu. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên và nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm chở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định bị cáo có tội và tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, với Kết luận giám định và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 15 tháng 7 năm 2020 tại thôn Đ, N, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng bị cáo Phạm Văn D đã thực hiện hành vi cất giấu 1,75 gam ma túy Heroine tại túi quần trên người D đang mặc với mục đích sử dụng. Việc bị cáo cất giấu trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng 1,75 gam nhằm mục đích sử dụng đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng pháp luật.

- Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng, gây mất trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nên cần xét xử nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Bị cáo có 01 tiền án tại bản án số 59/2008/HSST ngày 16/9/2008 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng chưa được xóa án, nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo được xác định là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:

[5] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét, ngoài tiền án chưa được xóa, về nhân thân bị cáo còn có 05 tiền án đã được xóa án tích và 01 tiền sự chưa được xóa, bị cáo là người nghiện ma túy nhiều năm nay, cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét tính chất, mức độ phạm tội và hoàn cảnh gia đình của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng:

[8] Đối với ma túy là heroine còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 ví nâu và 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba là phương tiện bị cáo dùng để cất giấu ma túy giá trị không lớn nên tịch thu tiêu hủy.

- Về án phí và quyền kháng cáo:

[9] Theo quy định của pháp luật bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Văn D 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 15 tháng 7 năm 2020. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Phạm Văn D.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định có dấu niêm phong của cơ quan giám định số 440/2020/PC09, 01 vỏ bao thuốc là Vinataba, 01 ví da màu nâu (Vật chứng có đặc điểm chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Văn D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về