TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 90/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2020/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Trương Đức H, sinh năm 1964;
Nơi cư trú: Thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10, Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trương Đức X và bà Phạm Thị L (đều đã chết); Gia đình có sáu chị em, bị cáo là thứ sáu. Có vợ Phùng Thị K và 3 con, con lớn nhất sinh năm 1985, con nhỏ nhất sinh năm 1990.
Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
Ông Trương Đức L, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964.
Đều trú tại: Phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương;
Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đặng Quang D, sinh năm 1981;
Trú tại: Phố Q, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
Anh Trương Đức T, sinh năm 1986; Bà Trương Thị D, sinh năm 1961;
Đều trú tại: Thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương; Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Cụ Trương Đức X và cụ Phạm Thị L là vợ chồng, sinh được 06 người con gồm: Trương Thị Phương, (đã chết), Trương Đức Danh, Trương Đức L, Trương Thị Lưu, Trương Thị D, Trương Đức H. Năm 2002, trước khi chết cụ X và cụ L lập chúc thư về việc tặng cho các con mảnh đất 909 m2 ở thôn A xã N huyện T tỉnh Hải Dương. Các cụ cho bà Trương Thị Phương 64 m2, ông Trương Đức Danh 273 m2, ông Trương Đức L 273 m2 và Trương Đức H 299 m2. Diện tích đất cho H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất của ông Danh, ông L, bà Phương chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tháng 8/2019, ông L, ông Danh bàn bạc xây dựng tường bao, trụ cổng đối với phần đất của ông L, ông Danh, bà Phương. Trước khi tiến hành xây dựng, ông Trương Đức Danh đã nhờ địa chính xã N đo đạc, cắm mốc phân chia ranh giới. Sau đó, ông Danh và ông L thuê tổ thợ của ông Phan Trọng Chương xây dựng 02 trụ cổng bằng gạch chỉ có lõi sắt cao 2,94m rộng 0,54m có trát vữa; 01 bức tường cao l,5m dài 6m bằng gạch bê tông, 01 bức tường cao 0,5m dài 9m bằng gạch bê tông không trát vữa. Tổng chi phí xây dựng công trình khoảng 12.000.000 đồng và là tiền ông L chi trả. H cho rằng 2 tường bao và 1 trụ cổng mà ông L xây dựng đã lấn sang phần đất của H (phần đất này trước đây là ao, H mua lại của ông Phùng Duy Ngoan, hiện H đã san lấp trồng cây, xây nhà tuy nhiên việc H san lấp làm nhà trái phép trên đất công khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép). Vì vậy, ngày 14/3/2020, H thuê anh Đặng Quang D lái máy xúc húc đổ 01 trụ cổng và 2 tường bao của ông L. Ngày 07/5/2020, ông Trương Đức L có đơn tố giác đến cơ quan Công an xem xét hành vi hủy hoại tải sản của Trương Đức H.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 24 ngày 15/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Tứ Kỳ kết luận:
01 trụ cổng cao 2,94 rộng 0,54m có trát vữa được xây bằng gạch chỉ có lõi sắt. Tại thời điểm ngày 14/3/2020 có giá trị là 2.338.000 đồng 01 bức tường dài 9 m, cao 0,5m được xây bằng gạch ba banh không trát vữa. Tại thời điểm ngày 14/3/2020 có giá trị là 2.171.000 đồng 01 bức tường dài 6 m, cao l,5m được xây bằng gạch ba banh không trát vữa. Tại thời điểm ngày 14/3/2020 có giá trị là 3.464.000 đồng Tiền công xây dựng những hạng mục công trình trên 2.815.000 đồng Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 10.788.000 đồng.
Quá trình điều tra Trương Đức H đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình Tại bản Cáo trạng số 91/CT -VKSTK ngày 20/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo Trương Đức H ra trước tòa để xét xử về tội " Hủy hoại tài sản " quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự (BLHS), với tổng giá trị thiệt hại là 10.788.000 đồng .
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt cho bị cáo ở mức thấp nhất.
VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị xử phạt bị cáo Trương Đức H từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết; Về án phí: Xử buộc bị cáo Trương Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 14/3/2020, Trương Đức H đã thuê anh Đặng Quang D sử dụng máy xúc húc đổ 01 trụ cổng cao 2,94m, rộng 0,54m có trát vữa được xây bằng loại gạch chỉ có lõi sắt; 01 bức tường dài 6m cao l,5m; 01 bức tường cao 0,5m dài 9m được xây bằng loại gạch bê tông không trát vữa là tài sản hợp pháp của ông Trương Đức L ở phường P, thành phố C xây dựng tại thôn A xã N huyện T, tỉnh Hải Dương. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại 10.788,000 đồng.
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi thuê người đập phá tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do …., bị cáo vẫn cố ý thực hiện, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội " Hủy hoại tài sản " được quy định tại khoản 1 Điều 178 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo ra trước tòa để xét xử về tội danh và điều luật như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
[5] Căn cứ quy định của pháp luật, sau khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; Hội đồng xét xử thấy không cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, cho bị cáo cải tạo tại địa phương, khấu trừ thu nhập trong thời gian chấp hành án, cũng có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân tốt, bảo đảm mục đích đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
[6]Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trương Đức H đã tự nguyện bồi thường cho ông Trương Đức L số tiền 10.788.000 đồng. Đến nay, người bị hại không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự, nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[8] Đối anh Đặng Quang D không biết mục đích của H thuê thực hiện việc hủy hoại tài sản nên Cơ quan cánh sát điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.
[9] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 178, các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự;
1.Tuyên bố bị cáo Trương Đức H phạm tội “Hủy hoại tài sản”;
Xử phạt bị cáo Trương Đức H 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 10/12/2020.
Giao bị cáo Trương Đức H cho UBND xã N huyện Tứ Kỳ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trương Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 90/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 90/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về