Bản án 90/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ M, TỈNH H 

BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường P, xã M, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2019/HSST ngày 14/11/2019, theo quyết định đưa ra xét xử số 86/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Văn X, sinh năm 1989, Nơi cư trú: thôn N, xã H, thị xã M, tỉnh H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam: con ông Đỗ Văn Sánh, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1964; bị cáo có vợ Nguyễn Thị D và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Bản án số 71/HS-ST ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 30 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng (Án có kháng cáo, chưa xét xử phúc thẩm).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/06/2019 đến ngày 19/06/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam C - Công an H đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo X: Bà Trịnh Thị Dương – Luật sư Công ty Luật Hợp danh V.I.P – Chi nhánh Hải Phòng – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Địa chỉ: 65 Phan Đăng Lưu, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. Có mặt - Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1986. Vắng mặt Địa chỉ: phường Thái Thịnh, thị xã M, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 13/6/2019, Đỗ Văn X sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 của mình có lắp Sim số 0826.041.989 gọi đến số điện thoại 0964.676.315 của người có tên H1 (theo X khai) ở xã T, huyện M, tỉnh H hỏi mua của người này 04 viên ma túy tổng hợp với mục đích để sử dụng, H1 đồng ý và thống nhất giá là 1.400.000 đồng. Khoảng 22 giờ 15 phút cùng ngày, khi X đang ở khu vực quán Karaoke Quyền Tuấn thuộc X1, xã T1, huyện M thì H1 gọi điện cho X nói ra lấy ma túy. X đi bộ ra gần quán Karaoke Quyền Tuấn gặp H1. Tại đây, X đưa cho H1 số tiền 1.400.000 đồng và nhận của H1 01 hộp kim loại màu xanh, bên ngoài có chữ DOUBLEMINT, bên trong có 01 túi nilon chứa 04 viên nén hình trụ tròn màu xanh.

Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi X đang đi bộ đến khu vực cửa quán Karaoke Quyền Tuấn thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện M phối hợp Công an xã T1 kiểm kiểm tra và thu giữ trên tay phải của X 01 hộp kim loại màu xanh, bên ngoài có chữ DOUBLEMINT, bên trong có 01 túi nilon chứa 04 viên nén hình trụ tròn màu xanh, một mặt có in chìm hình vương miện, một mặt in chìm chữ ROLUX (niêm phong trong phong bì ký hiệu M) cùng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen trắng kèm sim. X khai đó là ma túy tổng hợp, X vừa mua của Hiểu với mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 252/KLGĐ-PC09 ngày 16/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an an TỈNH H kết luận: 04 viên nén hình trụ tròn màu xanh niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Đỗ Văn X gửi đến giám định tổng khối lượng là 1,656g là ma túy, loại MDMA. MDMA((±)-N-α- dimethyl-3,4-(methylenedioxy)phenethylamine) nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hoàn lại đối tượng giám định: 1,440g MDMA.

Quá trình điều tra, bị cáo Đỗ Văn X đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 83/CT - VKS ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Đỗ Văn X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng VKSND thị xã M đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo X cung cấp Huy chương kháng chiến của ông Đỗ Văn K; Huy chương kháng chiến ông Đỗ Đình B; Huân chương kháng chiến của ông Nguyễn Văn D là ông nội, ông ngoại và bác của bị cáo và trình bày ý kiến bào chữa: Về tội danh nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét động cơ phạm tội của bị cáo là do nhất thời cũng như các tài liệu chứng cứ là Huân, Huy chương để áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

- Đại diện VKSND thị xã M giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; xem xét nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn X phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn X từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 13/6/2019.

Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí Hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã M; Viện kiểm sát nhân dân thị xã M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận, do có ý định sử dụng ma túy, khoảng 21 giờ ngày 13/6/2019 bị cáo liên lạc và mua của một người thanh niên tên Hiểu (do X quen biết ở ngoài xã hội) 04 viên ma túy tổng hợp (thường gọi là Kẹo) với giá 1.400.000đồng với mục đích để sử dụng, ngay sau đó thì bị phát hiện và bắt giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng đã thu giữ, phù hợp lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/6/2019, tại khu vực trước cửa quán Karaoke Quyền Tuấn thuộc X1, xã T1, huyện M, tỉnh H, Đỗ Văn X có hành vi cất giấu trái phép 04 viên nén ma túy tổng hợp loại MDMA có khối lượng 1,656g mục đích để sử dụng, bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã M kết hợp Công an phường T1 phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã M truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng không những gây tác hại cho sức khoẻ, mà còn làm suy thoái phẩm giá con người, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Nhân thân của bị cáo: tại bản án số 71/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện(nay là thị xã) M đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tuy Bản án chưa có hiệu lực, do bị cáo kháng cáo song sau lần phạm tội này, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, cần xét phải có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[4]Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên bị cáo được áp dụng tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đi với ý kiến của người bào chữa, tại phiên tòa người bào chữa cung cấp Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến của ông nội, ông ngoại và bác của bị cáo và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng, ông nội, ông ngoại và bác của bị cáo không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, đề nghị của người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có công việc và thu nhập nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

Số ma túy đã thu giữ trong vụ án, sau khi giám định mẫu hoàn lại được niêm phong trong phong bị số 252/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh H; đây là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu cho tiêu hủy.

Đi với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, số Imel: 35579307069782 đã qua sử dụng. Đây là phương tiện bị cáo sử dụng liên khi mua mua túy. Do vậy, cần tịch thu của bị cáo X chiếc điện thoại trên, cho phát mại để sung vào Công quỹ nhà nước.

Đi với 01 sim điện thoại có số 0826041989 kèm theo máy điện thoại Iphone 5 màu đen (thu giữ của bị cáo X), xác định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

Đi với 01 hộp kim loại màu xanh bên ngoài có chữ DOUBLEMINT là công cụ bị cáo cất giấu ma túy, xác định không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[7]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, đối với người đàn ông tên là H1 sử dụng số điện thoại 0964.676.315 liên lạc và bán trái phép chất ma túy cho X. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện(nay là thị xã) M tiến hành thu giữ thư tín, điện tín xác định chủ thuê bao 0964.676.315 là Nguyễn Văn C, sinh năm 1992, trú tại T, huyện M, tỉnh H. Tiến hành xác minh tại thôn Mỹ Động, xã T, huyện M có người tên Nguyễn Văn H1, sinh năm 1994 và đối tượng Nguyễn Văn C, sinh năm 1992. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn C đều không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì gia đình và chính quyền địa phương không biết. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã M tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào:

+ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

+ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

+ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn X phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính:

+ Xử phạt Đỗ Văn X 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 13/6/2019.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu cho tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định 1,440g MDMA được niêm phong trong phong bị số 252/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh H.

+ Tịch thu của bị cáo X chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, số Imel: 35579307069782(đã qua sử dụng) cho phát mại để sung vào Công quỹ nhà nước.

+ Tịch thu cho tiêu hủy 01 sim điện thoại có số 0826041989 kèm theo chiếc điện thoại Iphone 5 màu đen thu giữ của bị cáo X.

+ Tịch thu cho tiêu hủy 01 hộp kim loại màu xanh bên ngoài có chữ DOUBLEMINT(đã qua sử dụng).

(Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/11/2019 giữa Công an thị xã M và Chi cục thi hành án dân sự thị xã M).

- Án phí: Buộc bị cáo Đỗ Văn X phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, có mặt người bào chữa cho bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về