Bản án 90/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở UBND xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Phú K, sinh năm 1982 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đại Thắng, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú Đ (đã hy sinh) và bà Nguyễn Thị N; vợ là Nguyễn Thị D và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2009); tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/9/2019, tạm giam từ ngày 25/9/2019 (có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Khổng Văn M, sinh năm 1992; trú tại: Thôn C, xã V, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 17/9/2019 Nguyễn Phú K đang ở nhà thì Khổng Văn M gọi điện hỏi mua ma túy heroine của K với giá tiền 200.000 đồng thì K đồng ý và hẹn M đến đường bê tông đi vào Công ty T để mua bán ma túy. Sau đó K điều khiển xe máy mang biển kiểm soát 78-503YE từ nhà đến cổng Trung tâm y tế huyện L để mua ma túy của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (K không biết tên tuổi, lai lịch của người này), K mua của người đàn ông này 01 gói nhỏ ma túy heroine với giá tiền 100.000 đồng, sau đó K cầm gói ma túy vừa mua được đến đường bê tông đi vào Công ty T để bán cho M. Khi đến điểm hẹn thuộc tổ dân phố P, thị trấn L, huyện L, lúc này khoảng 09 giờ15 phút cùng ngày K thấy M đứng chờ ở đó một mình, gặp K thì M lấy 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng đưa cho K để mua ma túy, K cầm tiền cất vào túi quần bên trái K đang mặc, đồng thời lấy gói ma túy heroine K vừa mua được bán cho M. M cầm gói ma túy vừa mua được của K đúc vào túi quần bên phải M đang mặc thì lúc này lực lượng công an huyện Lập Thạch đến bắt quả tang. Cơ quan công an thu giữa trong túi quần bên phải M đang mặc 01 gói nhỏ bọc bên ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu A1) - M khai nhận đây là gói ma túy heroine M vừa mua của K; thu giữ trong túi quần bên trái phía trước K đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, K khai nhận đó là tiền bán ma túy cho M mà có. Cơ quan công an tiến hành lập biên bản quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 11 tiến hành khám xét nơi ở, đồ vật, tài sản đối với Nguyễn Phú K tại thôn Đ, xã Y, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả phát hiện và thu giữ: 01 gói nhỏ bọc bên ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu A2) tại giá sách trong phòng ngủ gia đình Nguyễn Phú K.

Ngày 17/9/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định số 212, 213 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định Mẫu vật gửi giám định A1, A2 có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy không? Loại chất ma túy, tiền chất gì? Trọng lượng (khối lượng) của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Trọng lượng (khối lượng) chất ma túy, tiền chất có trong mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Tại Bản kết luận giám định số 1952/KLGĐ ngày 21/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine… Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0317g (không phảy không ba một bảy gam, không kể bao bì”. Khối lượng heroine có trong 0,0317g mẫu gửi giám định là 0,0190g (không phảy không một chín không gam). Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1=0,000g mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”…” Tại Bản kết luận giám định số 1954/KLGĐ ngày 21/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,0190g (không phảy không một chín không gam, không kể bao bì”, loại Heroine. Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: 0,000g mẫu cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”…”. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Nguyễn Phú K khai nhận nguồn gốc gói ma túy K bán cho M ngày 17/9/2019 là do K mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (K không biết tên tuổi, lai lịch của người này) với giá 100.000 đồng ở cổng Trung tâm y tế huyện L. Đối với gói ma túy thu giữ được tại giá sách trong phòng ngủ tại nhà ở Nguyễn Phú K khi cơ quan công an tiến hành khám xét khẩn cấp. K khai nhận đó là gói ma túy heroine của K, K không nhớ nguồn gốc từ đâu mà có, mục đích K tàng trữ để bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân.

Đối với Khổng Văn M là người mua ma túy của Nguyễn Phú K. Trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở M đã bỏ trốn khỏi trụ sở. Cơ quan điều tra đã truy tìm và tiến hành xác minh tại xã V, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc nhưng không có thông tin về Khổng Văn M, sinh năm 1992 có nhân thân, lý lịch, địa chỉ như M khai báo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Phú K ngày 17/9/2019 tại cổng Trung tâm y tế huyện Lập Thạch. Do K không biết tên tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với Nguyễn Thị Dung (vợ Nguyễn Phú K), quá trình điều tra xác định chị Dung không biết việc K tàng trữ trái phép chất ma túy trong nhà, không biết việc K sử dụng và mua bán chất ma túy nên không có căn cứ để xem xét xử lý.

Đối với vật chứng thu giữ: Đối với số tài sản, đồ vật thu giữ của các đối tượng quá trình điều tra làm rõ: 02 bao gói niêm phong chất ma túy - heroine, ký hiệu A1= 0,000g; A2=000g do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn trả sau khi tiến hành giám định; Số tiền 200.000 đồng thu của K là tiền K bán ma túy - heroine cho M mà có; 01 điện thoại di động màu trắng thu giữ của K là công cụ, phương tiện để K sử dụng mua bán ma túy; 01 mảnh giấy có ghi dãy số 9110; Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda có biển kiểm soát 78 - 503YE. Quá trình điều tra K khai nhận là của K mua lại (không có giấy tờ mua bán) với số tiền 4.500.000 đồng là tài sản cá nhân của K. Ngày 07/11/2019 Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc có công văn số 1967/XMVC-PC01, kết quả tra cứu chiếc xe mang biển kiểm soát 78-503YE, số máy SS50E-260697, số khung SS50-279449 không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Ngày 30/10/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch có công văn số 395A/CV-CQĐT đề nghị Phòng GTVT - Công an tỉnh Phú Yên tra cứu phương tiện có đặc điểm như trên chủ sở hữu là ai nhưng đến nay chưa có kết quả tra cứu, chưa xác định chủ sở hữu. Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Phú K đã thành khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như nội dung trên.

Bản Cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 14/11/2019, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Phú K về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Phú K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Phú K đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú K phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Phú K từ 24 tháng đến 30 tháng tù, không phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Phú K nói lời sau cùng: Không nói gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Phú K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người liên quan, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định…. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 17/9/2019, Nguyễn Phú K nhận được điện thoại của Khổng Văn M hỏi mua 200.000 đồng ma túy, được K đồng ý và hẹn chỗ mua bán ma túy. Khoảng 09 giờ 15 phút, tại khu vực đường bê tông đi vào Công ty T thuộc tổ dân phố P, thị trấn L, huyện L, M đưa cho K 200.000 đồng, K cầm tiền cất vào túi quần đang mặc rồi lấy 01 gói ma túy đưa cho M, M cầm ma túy và cất vào túi quần đang mặc thì bị Công an huyện Lập Thạch phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần bên phải của M đang mặc 01 gói ma túy có khối lượng 0,0317 gam, hàm lượng 0,0190 gam Heroine và 01 mẩu giấy ghi số 9110; thu trong túi quần bên trái K đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 78-503YE, 01 điện thoại di động. Ngoài ra, cùng ngày cơ quan điều tra thu giữ tại giá sách trong phòng ngủ của gia đình K 01 gói ma túy có khối lượng 0,0190 gam loại heroine.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy do bị cáo Nguyễn Phú K thực hiện đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội vì nó làm xói mòn đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do vậy việc đưa bị cáo Nguyễn Phú K ra xét xử lưu động công khai tại khu dân cư là cần thiết có tác dụng tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, giữ vững an ninh tại địa phương.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu làm ăn lương thiện mà vì hám lợi mà lao vào con đường mua bán trái phép chất ma túy. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bố bị cáo là liệt sỹ nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Việc mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo Nguyễn Phú K thực hiện vì mục đích thu lợi nhưng Nguyễn Phú K chưa đem nguồn lợi gì cho gia đình, bản thân bị cáo Nguyễn Phú K không có việc làm, không có tài sản gì nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.

[5]. Đối với Khổng Văn M là người mua ma túy của Nguyễn Phú K. Trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở M đã bỏ trốn khỏi trụ sở. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục truy tìm để xử lý M theo quy định của pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Phú K là tiền bán ma túy mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động của Nguyễn Phú K sử dụng vào việc mua bán ma túy, cần tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 78-503YE, hiện nay chưa có kết quả tra cứu của Công an tỉnh Phú Yên về ai là chủ sở hữu nên cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra là rõ để xử lý theo quy định.

01 mẩu giấy ghi số 9110 là tài liệu chứng minh tội phạm nên cần lưu trữ trong hồ sơ.

Đối với 02 bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy [7]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 - Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Phú K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.vÁp dụng: Khoản 1 Điều 251, điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Phú K 02 (Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/9/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 200.000 đồng của Nguyễn Phú K.

Tịch thu bán sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động của Nguyễn Phú K;

Tịch thu tiêu hủy 02 bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Phú K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về