Bản án 90/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 90/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng  11 năm 2018, tại  Phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Đông  Triều,  tỉnh  Quảng  Ninh  xét  xử  sơ  thẩm  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số: 88/2018/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Vương Thanh T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 25/4/1994, tại huyện H, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Khu M, phường H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn Đ và bà Nguyễn Thị T, có vợ Nguyễn Thị H, có 02, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt ngày 24/7/2018 (Hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều), có mặt.

Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994; địa chỉ: Khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn Hồng T, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn B, xã B, thị xãĐ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Thành H, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu 2, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

4. Anh Lê Văn H, sinh năm 1997; địa chỉ: Khu T, phường H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

5. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1994; địa chỉ: Khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

6. Anh Vũ Thanh L, sinh năm 1995; địa chỉ: Khu M, phường H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

7. Chị Lò Thị H, sinh năm 1994; địa chỉ: Tổ 11, phường H, thành phố H,tỉnh Hòa Bình, vắng mặt.

Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Dương Văn T, sinh năm 1978; địa chỉ: Khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 23/7/2018, Công an phường Đức Chính, thị xã Đông Triều kiểm tra hành chính nhà chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994, tại khu Y, phường Đ, thị xã Đ thấy trong phòng khách có 08 người, gồm có: Nguyễn Thị H; Nguyễn Văn T, sinh năm 1994 đều trú tại phường Đ, thị xã Đ; Lê Văn H, sinh năm 1997 và Vũ Thanh L, sinh năm 1995 đều trú tại phường H, thị xã Đ; Nguyễn Văn Hồng T, sinh năm 1992, trú tại xã B, thị xã Đ; Nguyễn Thành H, sinh năm 1984 trú tại phường Đ, thị xã Đ; Lò Thị H, sinh năm 1993, trú tại phường Hữu N, thành phố H và Vương Thanh T. Khi thấy tổ công tác đến, lập tức T cầm chiếc túi xách giả da màu nâu của T để trên bàn uống nước bỏ chạy ra phía sau nhà chị H rồi ném qua tường rào sang vườn nhà chị Vương Thị X (liền kề nhà chị H), thì bị phát hiện thu giữ. Thu trong túi quần bò bên phải T đang mặc 01 túi nilon màu trắng kích thước 01 x 01 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; thu trong túi xách T ném sang vườn nhà chị X 01 túi nilon kích thước 06 x 03 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 sổ hộ khẩu và 01 thẻ căn cước công dân đều mang tên Vương Thanh T. Ngoài ra còn thu giữ của Tùng 01 điện thoại Iphone6, 01 điện thoại Nokia 1202 và 01 điện thoại Masstel. Thu giữ của Nguyễn Thành H 01 điện thoại Iphone4 và 01 điện thoại Masstel; thu giữ của Nguyễn Văn Hồng T 01 xe mô tô biển kiểm soát 14Z1-356.57; thu của Vũ Thanh L 01 điện thoại Nokia 105 và 01 xe mô tô biển kiểm soát 14F6-4045; thu giữ của Lò thị H 01 điện thoại OPPO; thu giữ của Nguyễn Văn Thái 01 điện thoại Nokia 230 và 01 xe mô tô biển kiểm soát 14K9- 7158; thu giữ của Lê Văn H 01 điện thoại Iphone4s.

Tại bản kết luận giám định số: 545/GĐMT ngày 26/7/2018, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng trong túi quần bò bên phải của Vương Thanh T ký hiệu M1 là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,261gam (Không phẩy hai sáu một gam); 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu trong túi xách của T ném sang vườn nhà chị X ký hiệu M2 là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 1,383gam (Một phẩy ba tám ba gam).

(Methamphetamine nằm trong danh mục IIC, STT: 323; Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất). Tại bản kết luận giám định số: 105/GĐSV ngày 08/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Dấu vết thu trên vỏ giấy nilon trong túi xách của T gửi giám định không phân tích được gen để truy nguyên cá thể.

Quá trình điều tra Vương Thanh T khai nhận: Do nghiện chất ma túy từ đầu tháng 3/2018, nên cách ngày bị bắt khoảng 04 ngày, T gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (Không rõ địa chỉ lai lịch) 01 túi nilon ma túy dạng đá với giá 300.000đ tại khu vực cổng Trung tâm y tế thị xã Đông Triều, thuộc phường Hưng Đạo, Đông Triều, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy T cất giấu vào túi quần bò phía trước đang mặc. Tối ngày 23/7/2018, T mang theo 01 túi giả da bên trong có 01 sổ hộ khẩu và 01 thẻ căn cước công dân của T và gói ma túy trên người đến nhà chị H chơi. Đến nơi T để chiếc túi xách lên mặt bàn uống nước và ngồi nói chuyện với L, T, T, H, H1, H2 ngồi ở dưới nền nhà. Đến khoảng 21 giờ 30 phút, T vẫn để túi xách trên bàn, đi ra ngoài nói chuyện với L khoảng 15 phút thì quay lại, thấy chiếc túi vẫn ở vị trí cũ. Trong khoảng thời gian này những người có mặt đều khẳng định không có bất kỳ ai mở hoặc sử dụng chiếc túi của T. Khi lực lượng Công an vào kiểm tra, T cầm chiếc túi bỏ chạy ra phía sau nhà và ném sang vườn nhà chị X thì bị Công an phường Đức Chính thu giữ. Túi nilon kích thước 06 x 03 cm có chứa 1,383gam ma túy thu trong túi xách  giả da màu nâu, T không thừa nhận là của T và cũng không biết tại sao lại có trong túi xách.

Bản Cáo trạng số: 93/CT-VKS-ĐT ngày 07/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Vương Thanh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)…

c)  Heroine,  Cocaine,  Methamphetamine,  Amphetamine,  MDMA  hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố; đề nghị xét xử bị cáo Vương Thanh Tùng về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị mức hình phạt từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 24/7/2018; đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định trong niêm phong số 545/GĐMT và 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 105/GĐSV; đề nghị trả lại bị cáo Vương Thanh T 01 điện thoại di động Masstel; 01 điện thoại Nokia 1202; 01 điện thoại Iphone6 và 01 túi xách màu nâu theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Vương Thanh T khai nhận hành vi phạm tội và thừa nhận việc Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều truy tố, cũng như luận tội và các đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, nên không tranh luận. Bị cáo nói sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2]. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Tại phiên tòa bị cáo Vương Thanh T khai nhận, vào khoảng 22 giờ 15ngày 23/7/2018, tại  nhà chị Nguyễn Thị H2 ở khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 (Một) túi nilon chứa chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng là: 0,261gam (Không phẩy hai sáu một gam) mục đích để sử dụng thì bị phát hiện. Trong phần tranh luận tại phiên tòa thì bị cáo thừa nhận số ma túy là 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu trong túi xách của T ném sang vườn nhà chị X ký hiệu M2 là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 1,383gam (Một phẩy ba tám ba gam) là của bị cáo và khẳng định chiếc túi xách là của bị cáo luôn mang theo người, trong túi còn có sổ hộ khẩu và thẻ căn cước công dân của bị cáo.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng chị Nguyễn Thị H2, anh Nguyễn Văn Hồng T, anh Nguyễn Thành H, anh Lê VănH1, anh Nguyễn Văn T, anh Vũ Thanh L, chị Lò Thị H và lời khai của những người chứng kiến các anh Nguyễn Văn Q và anh Dương Văn Tđều có nội dung: Khi lực lượng Công an kiểm tra, thu trong túi quần bò bên phải T đang mặc 01 túi nilon màu trắng kích thước 01 x 01 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; thu trong túi xách Tùng ném sang vườn nhà chị X 01 túi nilon kích thước 06 x 03 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 sổ hộ khẩu và 01 thẻ căn cước công dân đều mang tên Vương Thanh T, trong thời gian Tùng để chiếc túixách trên bàn uống nước tại nhà chị Nguyễn Thị H2, không có ai cầm vào chiếc túi của T.

Phù hợp với biên bản kiểm tra hành chính do Công an phường Đức Chính lập hồi 22 giờ 15 phút ngày 23/7/2018, tại nhà chị Nguyễn Thị H2 ở khu Y, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, cùng các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ hồi 23 giờ 05 phút ngày 23/7/201 và biên bản lập hồi 23 giờ 30 phút ngày 23/7/2018. Ngoài ra còn phù hợp với Kết luận giám định số: 545/GĐMT ngày 26/7/2018, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng trong túi quần bò bên phải của Vương Thanh T ký hiệu M1 là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,261gam (Không phẩy hai sáu một gam); 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu trong túi xách của T ném sang vườn nhà chị X ký hiệu M2 là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 1,383gam (Một phẩy ba tám ba gam).

Với hành vi tàng trữ trái phép 01 (Một) túi nilon chứa chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng: 0,261gam (Không phẩy hai sáu một gam) mục đích để sử dụng và 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu trong túi xách của Tùng là chất ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 1,383gam (Một phẩy ba tám ba gam). Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vương Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản Cáo trạng số: 93/CT-VKS-ĐT ngày 07/11/2018, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố đối với bị cáo và các đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và gây mất an ninh trật tự tại địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay, tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho xã hội, gây nguy hại đến sức khỏe, đời sống của con người, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cho người sử dụng và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Do vậy, cần phải xử phạt với một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét nhân thân của bị cáo cho thấy: Bị cáo là người trưởng thành có nhận thức xã hội và nhận thức pháp luật, nhưng không tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân dẫn đến nghiện chất ma túy mà đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Tại phiên tòa và quá trình điều tra, bị cáo cơ bản thành khẩn khai báo, ăn nănhối cải, bố đẻ của bị cáo là ông Vương Văn Đ có nhiều thành tích phục vụ trong quân đội được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, cho nên, áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Mặc dù đã được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [3]. Về vật chứng, các vấn đề khác và án phí:

Số ma túy, Cơ quan giám định hoàn lại trong phong bì niêm phong số 545/GĐMT thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 105/GĐSV ngày 08/8/2018, cần tịch thu tiêu hủy. Trả lại bị cáo Vương Thanh T 01 điện thoại di động Masstel; 01 điện thoại Nokia 1202; 01 điện thoại Iphone 6 và 01 túi xách màu nâu, vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với 03 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14F6-4045; 14Z1-356.57 và 14K9-7158 cùng 06 chiếc điện thoại di động mà Cơ quan điều tra đã thu giữ đều không liên quan đến hành vi phạm tội của Vương Thanh T, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp là các anh Vũ Thanh L, Nguyễn Văn Hồng T, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thành H, Lê Văn H và chị Lò Thị H; trả lại 01 sổ hộ khẩu và 01 thẻ căn cước công dân cho Vương Thanh T (Bố của T là ông Vương Văn Đđã nhận thay), mọi người không có ý kiến gì về quyết định xử lý vật chứng trên, nên không đề cập giải quyết.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Vương Thanh T, quá trình điều tra không xác định được lý lịch, địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở xử lý.

Chị Nguyễn Thị H là người gọi điện rủ Vương Thanh T đến chơi, nhưng không biết T tàng trữ trái phép chất ma túy, nên không đề cập xử lý. Đối với Vũ Thanh L, Nguyễn Văn Hồng T, Nguyễn Thành H và Lê Văn H là những người nghiện ma túy, đã sử dụng ma túy trước đó. Sau khi xét nghiệm cận lâm sàng đều dương tính với Methamphetamine, nên Công an thị xã Đông Triều đã ra quyết định xử phạt hành chính, nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vương Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vương Thanh T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 24/7/2018.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 545/GĐMT và 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 105/GĐSV.

Trả lại bị cáo Vương Thanh T 01 điện thoại di động Masstel; 01 điện thoại Nokia 1202; 01 điện thoại Iphone 6 và 01 túi xách màu nâu.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật  chứng số 10 ngày 07/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều.

Buộc bị cáo Vương Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vương Thanh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về