Bản án 90/2018/HS-ST ngày 08/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 90/2018/HS-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phốHồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Long H; Sinh ngày: 27/4/1989; Tại: Tỉnh An Giang; Thường trú: 395 tổ 11, ấp PAB, xã PV, thị xã TC, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Hòa Hảo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Thành X (chết) và bà: Trần Thị U; Có vợ: Là bà Võ Thị Thanh N và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 06/7/2018. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Lê Nhựt T; Sinh năm: 1983; Thường trú: 551/13Bis đường PVC, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 262/17 BPĐ, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 06/7/2018, tại trước cổng công viên PL trên đường ADV, Phường M, Quận F, lực lượng trinh sát hình sự Công an Quận 6 phát hiện Lê Nhựt T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59N2-294.04 chở Lê Long H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong túi quần bên phải của H 01 bịch nylon bên trong chứa tinh thể không màu (H khai đó là ma túy đá), nên đã giao H, T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Long H khai: Do nghiện ma túy tổng hợp (ma túy đá), nên sáng ngày 06/7/2018, H đến khu vực thành phố mới BD mua từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 400.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, H đi xe ôm đến nhà của Lê Nhựt T tại BPĐ, Phường P, Quận H chơi rồi sau đó nhờ T chở qua nhà bạn gái của H ở khu vực cầu BL, huyện BC, T đồng ý và chở H chạy đến trước cổng công viên PL thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên. Lê Nhựt T khai cũng tương tự và xác nhận không biết Lê Long H cất giữ ma túy trong người. Tại Kết luận giám định số: 1178/KLGĐ-H ngày 12 tháng 7 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Võ Hoàng Sơn, Phạm Thành Long, Lê Long H và hình dấu Công an Phường 13, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4788g (không phẩy bốn bảy tám tám gam), loại Methamphetamine.

Đối với Lê Nhựt T, do không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn người đàn ông bán ma túy cho Lê Long H, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 97/CT-VKS-Q6 ngày 19 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Long H về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Long H khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua bịch ma túy tổng hợp loại đá giá 400.000 đồng để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Long H như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lê Long H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1178/2018, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Võ Hoàng Sơn, Phạm Thành Long.

Trả lại bị cáo Lê Long H 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, vỏ màu trắng, số Imei: 869525027833736 (có sim thuê bao bên trong). 

Các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lí.

Lời nói sau cùng, bị cáo Lê Long H nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Long H tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Long H đã cất giữ 0,47 88 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy ». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố. Hành vi của bị cáo Lê Long H không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Lê Long H có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Long H là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo mặc dù tại phiên tòa chưa tỏ ra ăn năn hối cải, nhưng cũng có thái độ thành khẩn nhận tội; về nhân thân là phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Lê Long H còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1178/2018, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Võ Hoàng Sơn, Phạm Thành Long, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, vỏ màu trắng, số Imei: 869525027833736 (có sim thuê bao bên trong) thu giữ của bị cáo Lê Long H. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ chứng cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo hai Phiếu nhập kho vật chứng số: 112/PNK ngày 19 tháng 7 năm 2018 và số: 148/PNK ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL37,114)

Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59N2-294.04 và 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc hiệu Philips màu đen, không có nắp đậy pin; 01 chiếc hiệu Oppo, màn hình bị nứt) thu giữ của ông Lê Nhựt T, Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông T, không phải là vật chứng trong vụ án, nên đã xử lý trả lại ông T (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/8/2018 - BL112), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6] Đối với ông Lê Nhựt T, Viện kiểm sát xác định không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn người đàn ông mà bị cáo Lê Long H khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Lê Long H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Long H phạm tội: « Tàng trữ trái phép chất ma túy ».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Long H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/7/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1178/2018, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, Võ Hoàng Sơn, Phạm Thành Long.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Lê Long H 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, vỏ màu trắng, số Imei: 869525027833736 (có sim thuê bao bên trong).

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lê Long H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Lê Long H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2018/HS-ST ngày 08/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về