TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG – TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 90/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 11 năm 2018, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 372/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2018/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Yến H, sinh năm 1990 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn Đông Ng, xã NghĐ, huyện TT, tỉnh BN
2- Bị đơn: anh Nguyễn Đức B, sinh năm 1991; (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn H, xã XH, huyện LG, tỉnh BG
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến H trình bày: Chị và anh Nguyễn Đức B đã kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn.
Vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND xã XH, huyện LG ngày 30/8/2011, có tổ chức lễ cưới ngày 16/8/2011 tại gia đình hai bên. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau tại XH, LG sau đó thì chuyển về quê chị ở TT, BN. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, đến năm 2013 khi sinh con thứ hai xong thì chị phát hiện anh B có quan hệ với người phụ nữ khác, tên Dương Thiên Tr, chị và chị Tr nói chuyện thì biết anh B đã nói dối chị và chị Tr, sau đó anh B xin lỗi chị và hứa thay đổi, nhưng chỉ sau một, hai ngày anh B lại bỏ đi, anh B nói không bỏ được ai, nhưng chị không nhất trí vì vậy anh B đã bỏ đi và sống cùng chị Tr, sau này chị được biết anh B cũng không ở cùng chị Tr nữa mà về BG làm việc và ở cùng với bố, mẹ anh B ở XH, LG. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay. Sau khi chị gửi đơn đến Tòa án, chị đã thông báo cho anh B song anh B nói Tòa án muốn giải quyết thế nào thì giải quyết, anh không về ở với chị nữa. Nay vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: vợ chồng chị có hai con là Nguyễn Thị Yến Tr, sinh ngày 31/7/2012 và Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 25/12/2013, các con đều khỏe mạnh và từ trước đến nay đều do chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Nay nguyện vọng của chị xin được nuôi cả hai con, không yêu cầu anh Bình đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, công nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Đức B đã được Tòa án gửi thông báo thụ lý, gửi giấy triệu tập đến Tòa án làm việc, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa song anh Bình không đến Tòa án làm việc.
Ông Nguyễn Văn B, bố đẻ anh B trình bày: Anh B, chị H đã kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại xã XH, tuy nhiên sau khi kết hôn anh, chị chuyển về quê chị H sinh sống. Việc vợ chồng anh B, chị H mâu thuẫn như thế nào ông không biết, song khoảng tháng 4/2018 anh B về nhà ở với vợ chồng ông, bà và nói việc vợ chồng mâu thuẫn, nên anh B không ở cùng chị H nữa. Hiện nay anh B đang đi làm công nhân nhưng ông không rõ ở công ty nào, anh B vẫn về gia đình. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, anh B đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập đến làm việc nhưng anh B nói không lên Tòa án làm việc, sau đó anh đi làm. Tòa án đã gửi các văn bản giấy tờ tố tụng cho gia đình ông qua đường bưu chính hoặc trực tiếp ông nhận, ông đều đã thông báo cho anh B. Ông đề nghị Tòa án cứ xét xử theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc. Anh B vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, nên HĐXX xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về nội dung vụ án, kiểm sát viên đã phân tích đánh giá tài liệu, chứng cứ, thực trạng mâu thuẫn của chị H, anh B, đề nghị áp dụng điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H, anh B ly hôn. Về con chung giao cho chị H nuôi cả hai con là Nguyễn Thị Yến Tr, sinh ngày 31/7/2012 và Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 25/12/2013. Về cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét do chị H không yêu cầu. Về án phí, chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Chị H, anh B có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Yến H cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
[2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn đã được Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa hợp lệ song anh B không đến Tòa án làm việc. Đây là phiên tòa thứ hai anh B vắng mặt, do đó HĐXX căn cứ điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo quy định.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Yến H và anh Nguyễn Đức B đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã XH, huyện LG ngày 30/8/2011 nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
Về mâu thuẫn vợ chồng: Lời khai của chị Nguyễn Thị Yến H cho thấy chị H và anh Nguyễn Đức B trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, do anh B có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Lời khai của ông Nguyễn Văn B cho biết từ khoảng tháng 4/2018 anh B về nhà và nói với ông việc vợ chồng mâu thuẫn và không ở cùng nhau nữa. Mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh B không đến Tòa án làm việc, HĐXX căn cứ lời khai của chị H, của ông B thì thấy giữa vợ chồng chị H, anh B đã có mâu thuẫn nhiều năm, đã sống ly thân và hiện nay mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai, cuộc sống hôn nhân không đạt mục đích, do đó Tòa án căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị Yến H và anh Nguyễn Đức B ly hôn là phù hợp.
[4].Về con chung: Chị H và anh B có hai con chung Nguyễn Thị Yến Tr, sinh ngày 31/7/2012 và Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 25/12/2013 hiện đều do chị H nuôi. Chị H có nguyện vọng được nuôi cả hai con, HĐXX xét thấy anh B hiện nay thường xuyên đi làm xa, nơi ở không ổn định, trong thời gian vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến các con mà bỏ mặc chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, xét điều kiện của chị H hiện có nơi cư trú và có công việc thu nhập ổn định nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H giao cho chị nuôi cả hai con. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điều 56, 57, điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, điều 35; điều 39; điều 70; điều 71; điều 72; điều 147; điều 227, 228, điều 235; 238, điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 26; khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Yến H và anh Nguyễn Đức B ly hôn.
Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Yến H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Yến Tr, sinh ngày 31/7/2012 và Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 25/12/2013.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: không đặt ra xem xét, giải quyết do chị H không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, anh B có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.
Án phí: Chị Nguyễn Thị Yến H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)án phí dân sự ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006759 ngày 26/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bản án 90/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 90/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về