TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 901/2017/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 13 tháng 7 năm 2017 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 202/2017/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2017 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 690/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Hồ Bảo X; địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An(Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H; địa chỉ cư trú: Đường T, Phường S, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 02 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Hồ Bảo X trình bày: Bà X và ông H tự nguyện chung sống với nhau năm 2013 đến năm 2014 thì đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường S, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông H sống không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm đến vợ con. Bà X đã nhiều lần nói chuyện để mong ông H thay đổi nhưng không có kết quả nên từ tháng 10/2015 bà X đã chuyển về nhà mẹ đẻ ở tỉnh Long An sinh sống và làm việc. Từ khi sống ly thân bà X và ông H không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay bà X xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.
Về con chung: Bà X và ông H có một con chung tên, sinh ngày 28/9/2014. Bà X yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Bà X không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tài liệu chứng cứ bà X đã giao nộp cho Tòa án gồm có: Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân Phường S, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Hồ Bảo X và ông Nguyễn Văn H ngày 27/10/2014; giấy khai sinh của trẻ Nguyễn Quốc B; chứng minh nhân dân, hộ khẩu của Bà X và ông H.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho ông H và giấy triệu tập ông H đến Tòa án để ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Bà X nhưng ông H không đến Tòa án và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của Bà X. Ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Bà X bảo lưu các ý kiến đã trình bày và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Ông H vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà X khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H, đây là tranh chấp về ly hôn. Ông H có nơi cư trú tại quận G, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận G. Ông H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông H.
[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của Bà X: Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa Bà X và ông H là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được công nhận hôn nhân hợp pháp. Bà X xin ly hôn với ông H vì nhận thấy mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy từ sau khi vụ án được thụ lý và trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ đối với ông H đến Tòa để giải quyết vụ án nhưng ông H vẫn không đến Tòa. Điều này chứng tỏ ông H không có trách nhiệm đối với hôn nhân của mình, không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà X đối với ông H.
[3] Xét yêu cầu nuôi con của Bà X: Bà X và ông H có một con chung tên Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/9/2014. Hội đồng xét xử nhận thấy từ khi Bà X và ông H sống ly thân thì Bà X là người trực tiếp nuôi con. Mặc dù Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông H về con chung nhưng xét thấy hiện trẻ Nguyễn Quốc B đang do Bà X nuôi dưỡng và vẫn còn nhỏ nên cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ nên việc giao con cho Bà X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, Bà X yêu cầu trực tiếp nuôi con là có cơ sở để chấp nhận. Xét việc Bà X không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con là ý chí tự nguyện của Bà X và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về tài sản chung: do Bà X không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Bà X phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Bảo X được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.
2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Quốc B, sinh ngày 28/9/2014 cho Bà X trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của Bà X không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Ông H được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích con chung khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không xét.
4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Bà X phải chịu án phí nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí Bà X đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0017883 ngày 27/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Bà X được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 901/2017/HNGĐ-ST ngày 13/07/2017 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 901/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về