TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 893/2019/HC-PT NGÀY 12/12/2019 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
Ngày 12 tháng 12 năm 2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 234/2018/TLPT-HC ngày 25 tháng 5 năm 2018 về việc “Yêu cầu hủy quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 58/2018/HC-ST ngày 06 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3244/2019/QĐPT-HC ngày 26 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Bà Hà Thị C, sinh năm: 1972 (có mặt).
Địa chỉ: số 77 ấp 5, xã A, huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Bảo Q, sinh năm 1976 (có mặt).
Địa chỉ: Số 413/41/14/31 L, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trịnh Phước T - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Ngô Tấn T - Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và môi trường huyện T, tỉnh Long An (vắng mặt).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn A.
Địa chỉ trụ sở chính: số x/1 Quốc lộ 1A, xã L, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trầm Cẩm L - Giám đốc (có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn M, sinh năm: 1963 (vắng mặt).
Địa chỉ: 175 L, phường x, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Hà Thị C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Lê Bảo Q là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bà Hà Thị Công trình bày:
Vào ngày 18/01/2017, Ủy ban nhân dân huyện T (UBND huyện T) ban hành Quyết định 364/QĐ-UBND với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của bà C để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp A. Tổng cộng số tiền bồi thường là 117.883.380đ. Bà C không đồng ý giá trị bồi thường vì giá trị đất chưa đúng với thực tế, chưa xem xét vị trí đất và các khoản hỗ trợ khác chưa đúng quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, bà Hà Thị C khởi kiện yêu cầu hủy toàn bộ Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của UBND huyện T để ban hành quyết định bồi thường theo đúng quy định pháp luật.
Người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện T trình bày ý kiến như sau:
Thực hiện chủ trương thu hồi đất đề đầu tư hạ tầng khu công nghiệp A, UBND huyện T đã thực hiện các thủ tục theo quy định và thực hiện kê biên, áp giá, ban hành các quyết định bồi thường cho các hộ dân có đất và tài sản trên đất trong khu công nghiệp A. Trong quá trình ban hành các quyết định thu hồi đất và quyết định bồi thường, các hộ dân trong đó có hộ bà C đã khiếu nại và Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Long An đã tuyên hủy các quyết định bồi thường đối với 82 hộ dân trong đó có hộ bà Hà Thị C. Đến ngày 12/01/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (UBND tỉnh Long An) ban hành Quyết định 148/QĐ-UBND về việc phê duyệt lại hệ số điều chỉnh đơn giá đất bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng xây dựng khu công nghiệp A trên địa bàn xã A, huyện T. Ngày 18/01/2017, UBND huyện T ban hành Quyết định số 353/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư cho từng hộ. Theo đó, UBND huyện T ban hành Quyết định 364/QĐ-UBND với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của bà C để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp A. Tổng cộng số tiền bồi thường cho bà Hà Thị C 117.883.380đ (mức bồi thường nhận năm 2007 là 7.251.880đ), bà C đã nhận đủ số tiền bồi thường. UBND huyện T xác định đã thực hiện bồi thường đúng theo quy định pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị C.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Công ty TNHH A do ông Trần Văn M đại diện theo ủy quyền có ý kiến trình bày:
Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy định pháp luật và yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Tại Bản án số 58/2018/HC-ST ngày 06 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 74, Điều 75, Điều 83 và Điều 86 Luật đất đai; Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị C về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân huyện T.
Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của Ủy ban nhân dân huyện T ban hành là đúng quy định pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo.
Ngày 07/3/2018, bà Hà Thị C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị hủy toàn bộ nội dung Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân Trụ.
Tại đơn kháng cáo và trước phiên toà phúc thẩm hôm nay người khởi kiện bà Hà Thị C kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm, đề nghị hủy toàn bộ Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An.
Ông Ngô Tấn T - Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và môi trường huyện T bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Hà Thị C, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Ngày 18/01/2017 Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định 364/QĐ-UBND với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của bà Hà Thị C để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp A. Tổng cộng số tiền bồi thường bà C đã nhận xong là 117.883.380 đồng. Nhưng bà C không đồng ý giá trị bồi thường vì giá trị đất chưa đúng với thực tế, chưa xem xét các khoản hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của UBND huyện T. Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị C.
[2]. Xét kháng cáo của bà Hà Thị C, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1]. Về hình thức: Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An ban hành Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của bà Hà Thị C để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp A là đúng trình tự thủ tục và thẩm quyền theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 66 và Điều 69 Luật đất đai năm 2013.
[2.2]. Về nội dung: Bà Hà Thị C yêu cầu xem xét giá trị quyền sử dụng đất của bà đã được bồi thường vì thấp hơn so với giá trị đất của một số cá nhân theo Chứng thư thẩm định giá của Công ty định giá giá trị đất của cá nhân và một số hợp đồng chuyển nhượng đất của các hộ dân tại địa phương.
Xét thấy: Việc Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của bà Công để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp A là dựa trên cơ sở Quyết định 148/QĐ-UBND ngày 12/01/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An về việc phê duyệt lại hệ số điều chỉnh đơn giá đất bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng xây dựng khu công nghiệp trên địa bàn xã A, huyện T, tỉnh Long An và căn cứ Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là đúng quy định của pháp luật.
[2.3]. Về yêu cầu xem xét các khoản hỗ trợ khác của bà C: Ủy ban nhân dân huyện T áp dụng mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp 0,4 đối với hộ bà C là dựa trên cơ sở Quyết định 148/QĐ-UBND ngày 12/01/2017; Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 13/11/2014; Quyết định số 57/QĐ-UBND ngày 18/10/2016 và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 19/10/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An là hoàn toàn có lợi cho người dân nói chung và bà C nói riêng.
[2.4]. Về yêu cầu xem xét mua nên ưu đãi của bà C: Bà C đã được Ủy ban nhân dân huyện T hỗ trợ 7.000.000 đồng di dời và 88.160.000 đồng tái định cư. Theo Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 13/11/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An có hiệu lực thì vấn đề nền ưu đãi cho đất nông nghiệp không còn được triển khai nên việc Ủy ban nhân dân huyện T không giải quyết nền ưu đãi cho đất nông nghiệp của hộ bà C là đúng.
[3]. Từ các căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét việc Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị C là có căn cứ và đúng pháp luật. Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm hôm nay bà C không xuất trình được chứng cứ mới nên không có cơ sở để chấp nhận, nên giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính. Bác kháng cáo của bà Hà Thị C và giữ nguyên quyết định bản án hành chính sơ thẩm.
Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 74, Điều 75, Điều 83 Luật đất đai.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị C về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân huyện T.
Quyết định 364/QĐ-UBND ngày 18/01/2017 của Ủy ban nhân dân huyện T ban hành là đúng quy định pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hành chính phúc thẩm bà Hà Thị C phải nộp 200.000 đồng được khấu trừ vào số tiền 200.000 đồng bà C đã nộp tại biên lai thu số 0001195 ngày 07/03/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 893/2019/HC-PT ngày 12/12/2019 về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Số hiệu: | 893/2019/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về