TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh H, sinh ngày 17/11/1986 tại phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 1, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức T và bà Dương Thị L; Vợ: Chị Phạm Thùy D (đã ly hôn) và 04 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/8/2005 bị Công an phường B, thị xã H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 50.000 đồng về hành vi Cố ý gây thương tích theo Quyết định số 09/QĐ-XPHC; Ngày 28/8/2006 bị Công an phường N, thị xã H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 100.000 đồng về hành vi Đánh người gây thương tích theo Quyết định số 03/QĐ-XPHC; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2020 đến nay; Có mặt.
- Bị hại:
1. Bà Trần Thị H1; Sinh năm 1964; Trú tại: đường N, tổ dân phố 7, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Công nhân; Có mặt. Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị H1: Anh Phạm Trung Đ; Sinh năm 1991; Trú tại: Tổ dân phố 7, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Có mặt 2. Chị Phạm Thùy D; Sinh năm 1989; Trú tại: đường N, tổ dân phố 7, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Vắng mặt 3. Bà Dương Thị L; Sinh năm 1966; Trú tại: đường N, phường N, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Có mặt
Người làm chứng:
1. Ông Trần Văn H; Sinh năm 1968; Trú tại: đường N, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
2. Bà Nguyễn Thị Y; Sinh năm 1967; Trú tại: Tổ dân phố 1, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
3. Chị Bùi Thái H; Sinh năm 1993; Trú tại: Tổ dân phố 1, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
4. Chị Phan Thị Thu T; Sinh năm 1992; Trú tại: đường L, phường B, thành phố H; Vắng mặt
5. Chị Huỳnh Thị Diệu T; Sinh năm 1981; Trú tại: Tổ dân phố 6, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
6. Bà Nguyễn Thị T; Sinh năm 1956; Trú tại: đường N, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
7. Chị Lê Thị Hải Y; Sinh năm 1984; Trú tại: xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh:Vắng mặt
8. Bà Bùi Thị H; Sinh năm 1940; Trú tại: Phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
9. Ông Nguyễn Văn H; sinh năm 1962; Trú tại: đường N, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.
10. Ông Dương Duy C; Sinh năm 1964; Trú tại: đường X, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt
11. Ông Trần Hậu T; Sinh năm 1973; Trú tại: đường N, phường B, thành phố H; Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh H và vợ cũ là chị Phạm Thùy D có mâu thuẫn từ trước. Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 12/6/2020, H đến nhà của bà Trần Thị H1 (mẹ chị D) tại đường N, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh tìm gặp chị D để nói chuyện nhưng không gặp nên H bức xúc và nhặt 02 nữa viên gạch bên đường ném vào vách kính cường lực của gia đình bà H1 (cửa kính không bị hư hỏng gì) rồi H đi về. Trên đường về, H nhắn tin đe dọa chị D nếu không đến gặp H để nói chuyện thì sẽ mua xăng đốt nhà, do lo sợ nên chị D không thực hiện yêu cầu của H và gọi điện cho bà Dương Thị L (mẹ của H) đến. Khoảng 10 giờ cùng ngày, H mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu vàng đen, biển kiểm soát 38P1-269.71 của bà Nguyễn Thị Y (khi mượn nói đi có tí việc) rồi mang theo 01 bình nhựa 20 lít màu xanh và 01 que tăm đến Cửa hàng xăng dầu số 01 ở đường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh mua 150.000 đồng tiền xăng loại E5 A92 đựng trong chiếc bình mang theo. Sau đó, H mua 01 chiếc bật lửa khò ở quầy hàng tạp hóa bên đường rồi đến nhà bà Trần Thị H1 với mục đích đốt nhà bà H1 để cảnh cáo chị D và gia đình. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, H đi xe mô tô ôm bình đựng xăng đến trước cổng nhà bà H1. Lúc này, bà L đang ở phòng khách nhà bà H1 đi ra để can ngăn nhưng không được; những người khác trong nhà gồm chị D, cháu Nguyễn Anh K (con của chị D và H), chị Phan Thu T và bà H1 chạy vào phía trong, đóng cửa gỗ ngăn giữa phòng khách với những phòng phía sau nhà để trốn. H ôm bình đựng xăng đi vào trước cửa kính phòng khách, mở nắp bình rồi ném vào cửa phòng khách nhà bà H1, sau đó H bật lửa ga, dùng que tăm chèn khóa ga ném về phía bình xăng làm cho lửa bốc cháy rồi ra cổng điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi phòng khách đang bị cháy, chị D bế cháu Khôi, chị T và bà H1 chui qua cửa sổ phía sau ngôi nhà để ra ngoài nên không ai bị thương tích gì. Đến khoảng hơn 11 giờ cùng ngày thì đám cháy mới được người dân xung quanh và lực lượng cứu hỏa dập tắt. Hậu quả: Các tài sản trong phòng khách bị cháy thiệt hại 100% gồm: 02 tấm kính cường lực, 01 bộ bàn lề khóa và tay nắm cửa kính cường lực, 01 bộ rèm ri đô, 01 kệ tivi, 01 tivi samsung 50 inch, 01 bộ bàn thờ kèm theo đồ thờ, rèm ri đô, 02 chiếc quạt điện nhãn hiệu Senko, 02 bình gỗ, trần thạch cao 19m2, gạch ốp tường phòng khách 35m2, gạch lát 4m2, toàn bộ hệ thống điện trong phòng khách, sơn tường 60m2 và mặt kính bàn gỗ lim bị nứt vỡ hỏng hoàn toàn; Các tài sản khác gồm 01 bộ bàn ghế bằng gỗ lim,02 bộ khung và cửa bằng gỗ lim bị cháy gây thiệt hại một phần. Ngoài ra, tại phòng khách bị cháy hỏng hoàn toàn 01 điện thoại Iphone 6 trị giá 1.100.000 đồng của chị D và 01 chiếc ví da (không còn giá trị) bên trong đựng giấy tờ cá nhân và số tiền 2.450.000 đồng của bà L.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29 ngày 19/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND thành phố H kết luận: 01 tấm kính cường lực có kích thước 1,8m x 3m, dày 1,2cm trị giá 3.510.000đ; 01 tấm kính cường lực có kích thước 1,2m x 2,5m, dày 1,2cm trị giá 1.950.000đ; 01 bộ bàn lề, khóa, tay nắm cửa kích cường lực nhãn hiệu VVP trị giá 4.000.000đ; 01 bộ ri đô màu nâu, có kích thước 3,2m x 2,7m trị giá 1.290.000đ; 01 bộ kệ tivi kích thước 2,3m x 60cm x 60cm bằng gỗ công nghiệp trị giá 2.000.000đ; 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Samsung Smart Tivi 50 inch trị giá 5.000.000đ; 01 bộ đồ thờ gồm bàn thờ bằng gỗ có kích thước 127cm x 46cm dày 1cm trị giá 1.800.000đ, 01 đĩa sứ có họa tiết màu trắng xanh cao 5cm, rộng 40cm trị giá 150.000đ; 01 bình hoa bằng sứ có họa tiết màu trắng xanh cao 25cm miệng bình rộng 7cm trị giá 50.000đ; bộ li gồm 03 li nước bằng sứ có họa tiết màu trắng xanh có kích thước 2cm x 1cm trị giá 40.000đ, 02 bát hương bằng sứ có họa tiết màu trắng xanh có kích thước 10cm x 8cm trị giá 80.000đ, 01 bát hương bằng sứ có họa tiết màu trắng xanh có kích thước 13cm x 10cm trị giá 60.000đ, 01 bình bằng sứ có họa tiết màu trắng xanh kích thước cao 10cm phần đáy bình rộng 5cm trị giá 50.000đ, 02 đèn trang trí có chúp hoa cao 40cm trị giá 250.000đ, 01 bộ ri đô màu vàng có kích thước 135cm x70cm trị giá 472.000đ; 02 chiếc quạt điện nhãn hiệu Senko trị giá 320.000đ; 02 bình gỗ cao 64cm đường kính 24cm trị giá 8.000.000đ; trần thạch cao có diện tích 19m2 trị giá 5.130.000đ; 35m2 gạch ốp tường kích thước 30cm x 60cm trị giá 5.200.000đ; 4m2 gạch lát kích thước 60cm x 60cm trị giá 600.000đ; Hệ thống điện gồm 01 áp tô mát nhãn hiệu Vanlock trị giá 75.000đ, 04 ổ cắm nhãn hiệu Lioa trị giá 160.000đ, 09 bóng mắt trâu nhãn hiệu rạng đông trị giá 450.000đ, 01 bóng chiếu sáng xuất xứ Trung Quốc trị giá 900.000đ, 20m dây đèn led trị giá 700.000đ; Sơn tường có diện tích 60m2 hãng sơn Kova trị giá 1.300.000đ; 01 bộ bàn ghế bằng gỗ lim (gồm 01 bàn có kích thước 117cm x 55cm x 44cm, 03 ghế đơn có kích thước 56cm x 53cm x 32cm, 01 ghế dài có kích thước 160cm x 55cm x 32cm) giá trị phần thiệt hại 1.800.000đ, mặt kính bị vỡ có kích thước 1m28 x 48cm dày 1cm trị giá 300.000đ:
02 khung cửa bằng gỗ lim có kích thước 2m25 x 70cm x 20cm x 12cm, có kèm cửa gỗ lim giá trị thiệt hại 2.000.000đ; 01 khung cửa bằng gỗ lim có kích thước 2m55 x 120cm x 20cm x 12cm giá trị thiệt hại 1.500.000đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 trị giá 1.100.000đ.
Theo kết luận giám định số 4332 ngày 17/7/2020 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an thì sản phẩm cháy thu trên nền phòng khách nhà bà Trần Thị H1 có tìm thấy dấu vết của xăng.
Bản cáo trạng số 86/CT-VKS-TPHT ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Huỷ hoại tài sản” theo điểm b, d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Nguyễn Thanh H phạm tội “Huỷ hoại tài sản”; Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 178, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thanh H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra còn đề nghị về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.
Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nói không trình bày gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 12/6/2020, tại đường N thuộc phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, do mâu thuẫn cá nhân với chị Phạm Thùy D, Nguyễn Thanh H đã dùng xăng loại E5 A92 đốt phòng khách nhà bà Trần Thị H1 (mẹ của chị D, nơi chị D cư trú). Hậu quả làm các tài sản trong phòng khách của bà Trần Thị H1 bị cháy gồm: 02 tấm kính cường lực, 02 bộ rèm ri đô, 01 kệ tivi, 01 tivi samsung, 01 bộ bàn thờ, 02 chiếc quạt điện, 02 bình gỗ, trần thạch cao 19m2, gạch ốp tường phòng khách 35m2, gạch lát 4m2, sơn tường 60m2 và kính mặt bàn gỗ lim và toàn bộ hệ thống điện trong phòng khách hỏng hoàn toàn; các tài sản 01 bộ bàn ghế bằng gỗ lim, 02 khung cửa bằng gỗ lim bị cháy một phần, tổng giá trị tài sản của bà H1 bị thiệt hại là 49.137.000 đồng. Ngoài ra, tại phòng khách nhà bà H1 bị cháy hỏng hoàn toàn 01 điện thoại Iphone 6 trị giá 1.100.000 đồng của chị Phạm Thùy Dvà số tiền 2.450.000 đồng của bà Dương Thị L. Tổng toàn bộ tài sản bị thiệt hại trị giá 52.687.000 đồng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Huỷ hoại tài sản” quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự. Giá trị thiệt hại là 52.687.000đ và bị cáo dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ nên phải chịu các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Về nhân thân, bị cáo đã từng 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mẹ của bị cáo bồi thường cho bị hại 20.000.000đ thay cho bị cáo nên được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không xử phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[5] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là thỏa đáng.
[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ tại hiện trường và trả lại cho bà Trần Thị H1 các tài sản gồm: 01 bộ kệ tivi bằng gỗ công nghiệp, 01 bàn thờ bằng gỗ và 01 ghế dài đã bị than hóa, hư hỏng; trả lại cho bà Dương Thị L 2.450.000 đồng các tờ tiền đều bị cháy biến dạng một đầu bị cong dính các tờ tiền vào nhau là phù hợp. Các tài sản còn lại gồm: 01 khung sắt đã bị cháy biến dạng của chiếc Ti vi Samsung Smart Tivi 50 inch; 01 chiếc nắp nhựa màu xanh, 01 ví da, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng B1 mang tên Dương Thị L, 01 mô tơ máy của quạt điện, 01 bình nhựa, 01 chiếc điện thoại Iphone 6, 01 chiếc bật lửa đều đã bị cháy biến dạng không rõ hình; 01 bàn và 03 ghế đơn bằng gỗ lim, 02 bình gỗ đều đã bị cháy hoàn toàn, 02 nửa viên gạch đỏ gia đình không có nhu cầu nhận lại nên căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0911228585 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà Dương Thị L tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000đ thay cho bị cáo. Quá trình điều tra, bị hại bà Trần Thị H1 yêu cầu bồi thường số tiền 70.000.000 đồng, nhưng tại phiên tòa bà H1 đã đồng ý nhận số tiền 20.000.000 đồng nói trên và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Số tiền trên hiện có tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H vì vậy tuyên trả số tiền này cho bà Trần Thị H1. Bị hại chị Phạm Thùy D, bà Dương Thị L không yêu cầu bồi thường nên miễn xét.
[8] Đối với bà Nguyễn Thị Y là người cho mượn xe mô tô và chị Huỳnh Thị Diệu T là nhân viên cửa hàng xăng dầu bán xăng cho Nguyễn Thanh H nhưng đều không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên không xử lý.
[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b, d khoản 2 Điều 178; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Huỷ hoại tài sản”.
Xử phạt Nguyễn Thanh H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 12/6/2020.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 khung sắt đã bị cháy biến dạng của chiếc Ti vi Samsung Smart Tivi 50 inch có kích thước 107cm x 62 cm; 01 chiếc nắp nhựa màu xanh, hình tròn có đường kính 12cm, phía trong có dòng chữ MHCO:LTD; 01 ví da đã bị cháy biến dạng; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Dương Thị L số 183929902 cấp ngày 29/11/2019 đã bị cháy biến dạng; 01 giấy phép lái xe hạng B1 mang tên Dương Thị L số 421126003201 đã bị cháy biến dạng; 01 mô tơ máy của quạt điện đã bị cháy biến dạng; 01 bình nhựa đã bị cháy biến dạng; 01 bộ bàn ghế bằng gỗ lim gồm 01 bàn có kích thước 117cm x 55cm x 44cm và 03 ghế đơn có kích thước 56cm x 53cm x 32cm; 01 nửa viên gạch đỏ kích thước 13cm x 10cm x 6cm; 01 nửa viên gạch đỏ kích thước 11cm x 10cm x 6cm; 01 chiếc điện thoại Iphone 6 bị cháy biến dạng hoàn toàn có kích thước 14cm x 7cm, 01 chiếc bật lửa đã bị cháy biến dạng phía trên có vỏ kim loại màu trắng inox có kích thước 8cm; 02 bình gỗ cao 64cm đường kính 24cm.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia, model TA-1010 màu đen, IMEL 354185100648105 có số thuê bao 0911228585 thu giữ tại Nguyễn Thanh H.
Về trách nhiệm dân sự: Trả cho bị hại bà Trần Thị H1 số tiền 20.000.000 đồng có tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H do bà Dương Thị L tự nguyện nộp để bồi thường thay cho bị cáo.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, Bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án 89/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 89/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về