Bản án 89/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 89/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29/11/2019 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn K - sinh năm 1998, tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm NT, xã NL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: Không ổn định. nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Q và bà Nguyễn Thị D. Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con út; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/10/2019 và chuyển tạm giam kể từ ngày 18/10/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo, có mặt.

- Người bị hại: Anh L Anh T – sinh năm 1992. Nơi cư trú: Buôn CH, xã ES, huyện E tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt có lý do.

- Người làm chứng:

Anh Hoàng Văn H – sinh năm 1999. Nơi cư trú: T7, xã EK, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Anh Nông Công L – sinh năm 1992. Nơi cư trú: T4, xã ES, huyện E tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 18/7/2018, tại nhà anh Lê Anh T ở tk34, thuộc xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, tổ chức uống rượu gồm anh T, Trần Văn K, Nông Công L, Hoàng Văn H. Sau khi uống rượu được một lúc thì anh H xin về trước nên K hỏi mượn xe mô tô của anh T để chở H về thì anh T đồng ý và cho K mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-281.92 (loại xe Yamaha - Exciter, màu trắng đỏ) của anh T. Sau đó, K điểu khiển xe mô tô chở H về nhà rồi quay lại nhà anh T nhậu tiếp. Trong lúc uống rượu với nhau thì K mượn tiếp anh T chiếc xe mô tô và mượn điện thoại di động để liên lạc đi đón bạn, thì anh T cho K mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-281.92 và chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y55. Sau đó K điều khiển xe mô tô bỏ trốn rồi chiếm đoạt luôn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-281.92 và chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y55 của anh T. Khi đến khu chợ xã Ea, huyện E, K đã bán chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y55 được 700.000 đồng. Sau đó K đón xe ô tô khách chở chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-281.92 về huyện TG, tỉnh Thanh Hóa bán được 5.000.000 đồng. Số tiền bán điện thoại và bán xe mô tô trên K đã tiêu xài hết. Sau thời gian trốn tránh và biết mình đã bị truy nã nên đến ngày 09/10/2019 Trần Văn K đã ra đầu thú tại Công an huyện NĐ, tỉnh Nghệ An.

Tại biên bản về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 567/BB- ĐGTS ngày 27/8/2018, của Hội đồng định giá tài sản huyện Ea H’Leo, kết luận: Tổng trị giá các tài sản gồm chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-281.92 (loại xe Yamaha - Exciter, màu trắng đỏ) và chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y55, tại thời điểm bị xâm hại là 38.000.000 đồng.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đã đưa ra các chứng cứ buộc tội, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như tại bản cáo trạng số 94/CT-VKS, ngày 19/11/2019. Đồng thời đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn K phạm tội“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn K từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 09/10/2019.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, bị cáo K khai nhận đã bán điện thoại di động và chiếc xe mô tô cho hai người không rõ nhân thân lai lịch, nên không truy thu được vật chứng. Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo K đã bồi thường 30.000.000 đồng cho anh Lê Anh T và anh T không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo K đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào chiều ngày 18/7/2018, tại tk34, thuộc xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, lợi dụng sự tin tưởng của người khác nên Trần Văn K đã có hành vi mượn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha - Exciter biển kiểm soát 47D1-281.92 và chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y55 của anh Lê Anh T rồi chiếm đoạt và bỏ trốn. Sau thời gian trốn tránh và biết mình đã bị truy nã nên đến ngày 09/10/2019 Trần Văn K đã ra đầu thú tại Công an huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Tổng trị giá tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là 38.000.000 đồng.

Do đó, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo đối với bị cáo Trần văn K, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 175 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; ”

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của anh T, mượn các tài sản của anh T sử dụng vào việc cá nhân của mình. Sau khi mượn được tài sản này, bị cáo đã không trả lại cho anh T mà nảy sinh ý định chiếm đoạt và bán cho người khác để lấy tiêu xài cá nhân. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác bất hợp pháp là hành vi trái pháp luật, sẽ bị pháp luật trừng trị, thế nhưng do động cơ vụ lợi muốn có tiền tiêu xài cá nhân, nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn thời gian dài, gây khó khăn trong quá trình điều tra, khi biết hành vi phạm tội của mình không thể trốn tránh sự trừng trị của pháp luật, bị cáo mới đến Công an huyện NĐ, tỉnh Nghệ An đầu thú. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ý thức chấp hành pháp luật.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi đến Công an huyện NĐ, tỉnh Nghệ An đầu thú thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét đề nghị đại diện viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, nên Hội đồng xét xử xem xét để áp dụng mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

[4]. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, bị cáo K khai nhận đã bán điện thoại di động và chiếc xe mô tô cho hai người không rõ nhân thân lai lịch, nên không truy thu được vật chứng. Vì vậy, không có căn cứ xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo K đã bồi thường 30.000.000 đồng cho anh T và anh T không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự, nên không đặt ra để giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn K 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 09/10/2019.

3. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, bị cáo K khai nhận đã bán điện thoại di động và chiếc xe mô tô cho hai người không rõ nhân thân lai lịch, nên không truy thu được vật chứng. Vì vậy, không có căn cứ xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo K đã bồi thường 30.000.000 đồng cho anh T và anh T không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự, nên không đặt ra để giải quyết.

- Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:89/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về