Bản án 88/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trốn thuế

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 88/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TRỐN THUẾ

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2021/HSST ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2021/QĐXXST-HS ngày 13/5/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Như Minh T, sinh năm 1989 tại Ninh Thuận; nơi cư trú: thôn LT 2, xã Phd, huyện TN, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Như Ch và bà Lê Thị H; có vợ Trần Thị Nh và 01 con, sinh năm 2013; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Nguyên đơn dân sự: Cục thuế tỉnh NT Địa chỉ: Số 02 NTP, TP.PR, Ninh Thuận.

Người đại diện hợp pháp: Ông Lưu T- Trưởng phòng Thanh Tra – Kiểm tra Cục thuế tỉnh Ninh Thuận.( Có mặt) - Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Thôn Quán Thẻ 3, xã Phước Minh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.

2. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Số 194 Lê Duẩn, Khu phố 9, phường Phước Mỹ, TP Phan Rang – Tháp Chàm.

3. Ông Nguyễn Ngọc H1, sinh năm: 1970. Địa chỉ: Thôn Hạnh Trí 2, xã Quảng Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.

4. Ông Lý Lỷ C, sinh năm: 1963. Địa chỉ: Thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng

5. Ông Hoàng Đình B, sinh năm: 1980. Địa chỉ: Lô TN32.8 – Khu K1, phường Mỹ Bình, TP Phan Rang – Tháp Chàm.

6. Ông Trần Văn Th, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Xã Mỹ Cát, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

7. Ông Trần Văn D, sinh năm:1988. Địa chỉ: Số 85 Hoàng Sa, phường Đa Kao, Quận 1, TP Hồ Chí Minh.

8. Bà Nguyễn Thanh B1, sinh năm: 1983. Địa chỉ: Số 114/84 đường Bác Ái, phường Đô Vinh, TP. Phan Rang – Tháp Chàm.

9. Ông Hoàng Xuân H2, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Thôn 2, xã Kroong Tin, huyện MĐRAK, tỉnh Đắc lắk.

10. Ông Đoàn Văn H3, sinh năm: 1961. Địa chỉ: Tổ 32 thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng, Lâm Đồng.

11. Bà Đỗ Thị H4, sinh năm: 1987. Địa chỉ: Khu phố 7, phường Phước Mỹ, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận.

12. Bà Bùi Thị Quỳnh O, sinh năm: 1978. Địa chỉ: Khu phố 5, phường Phước Mỹ, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận.

13. Ông Trần Thanh T, sinh năm: 1977. Địa chỉ: Thôn Nhuận Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận.

14. Công ty TNHH Toàn Tâm Ninh Thuận. Địa chỉ: Thôn Mông Thuận, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận.

Người đại diện hợp pháp: Bà Bạch Thị Thanh H5 – Giám đốc.

( Người làm chứng đều vắng mặt, ông Hoàng Đình B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Như Minh T làm chủ sở hữu và là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Xây dựng Dịch vụ và Thương mại Đồng Tâm Ninh Thuận (gọi tắt là Công ty Đồng Tâm), địa chỉ trụ sở: Số 106 Đoàn Thị Điểm, chung cư C4, phường Thanh Sơn, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 4500631138 do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Ninh Thuận cấp đăng ký lần đầu ngày 24/04/2019 và đăng ký thay đổi lần 2 ngày 06/12/2019; loại hình Công ty một thành viên; Ngành nghề kinh doanh theo hồ sơ đăng ký doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực xây dựng công trình đường bộ, xây dựng công trình điện và buôn bán vật liệu, thiết bị lắp đặt khác trong xây dựng; Công ty đăng ký nộp thuế tại Cục thuế tỉnh Ninh Thuận.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2019, Công ty Đồng Tâm do Nguyễn Như Minh T điều hành đã mua mặt hàng xi măng và sắt của Công ty TNHH TM và Vận tải Giang Đình, Công ty Cổ phần xây dựng Ninh Thuận có hóa đơn đầu vào; mua mặt hàng cát, đá xây dựng của Công ty TNHH Toàn Tâm Ninh Thuận nhưng không có hóa đơn đầu vào. Sau khi mua, Công ty Đồng Tâm đã bán những mặt hàng trên cho 05 cá nhân, tổ chức và thi công một số hạng mục cho 02 doanh nghiệp tại dự án điện mặt trời Đức Long Gia Lai nhưng không xuất hóa đơn bán hàng nhằm trốn thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Tổng doanh thu mua bán hàng hóa, không xuất hóa đơn, không kê thai nộp thuế là 1.958.589.958 đồng (Một tỷ chín trăm năm mươi tám triệu năm trăm tám mươi chín ngàn chín trăm năm mươi tám đồng). Cụ thể, Nguyễn Như Minh T khai nhận thông qua hoạt động của Công ty Đồng Tâm, Triết đã bán hàng và thi công một số hạng mục cho một số cá nhân, doanh nghiệp nhưng không xuất hóa đơn đầu ra, không kê khai nộp thuế như sau:

- Bán hàng hóa cho ông Nguyễn Văn H trong giai đoạn từ tháng 08/2019 đến tháng 12/2019. Ông Hảo mua vật tư xây dựng do Triết bán với số lượng 278 m3 cát bê tông và 66 m3 cát san lấp với tổng số tiền là 50.670.000 đồng. Ông Hảo đã thanh toán toàn bộ bằng tiền mặt cho Triết, khi thanh toán hai bên không làm giấy tờ biên nhận, sau khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho ông Hảo.

- Bán hàng hóa ông Nguyễn Đức T. Tháng 10/2019 ông Toàn có nhận lại thi công hạng mục mương thoát nước của dự án nhà máy điện năng lượng mặt trời Đức Long Gia Lai ở xã Phước Minh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Ông Toàn đã mua của Triết với số lượng vật tư xây dựng cụ thể: 153 m3 cát bê tông; 150 kg thép phi 6; 650 kg thép phi 8; 593,75 kg thép phi 10; 195,4 kg thép phi 12 và 2019,4 kg thép phi 16 với tổng số tiền là 73.562.458 đồng. Ông Toàn đã thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên cho Triết bằng tiền mặt và chuyển khoản vào tài khoản cá nhân của Triết, sau khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho ông Toàn.

- Bán hàng hóa cho ông Nguyễn Ngọc H1, ông Hùng là nhân viên Công ty TNHH Khai thác khoáng sản Nam Thành (Công ty Nam Thành). Năm 2019, Công ty Nam Thành thi công đường nội bộ nhà máy điện mặt trời Sinenergy ở xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ông Hùng được Công ty giao nhiệm vụ mua vật tư xây dựng, ông Hùng đã liên hệ với Triết để mua số lượng vật tư xây dựng, gồm: 179,2 m3 Đá Loka; 24 m3 đá 4x6; 8 m3 đá 1x2 với tổng số tiền là 43.520.000 đồng. Ông Hùng đã thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên cho Triết, sau khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho ông Hùng cũng như Công ty Nam Thành.

- Bán hàng hóa cho ông Lý Lỷ C. Năm 2019, ông Cỏng nhận thi công hạng mục đường nội bộ nhà máy điện mặt trời Sinenergy ở xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước. Trong quá trình thi công, ông Cỏng đã trực tiếp liên hệ với Triết để mua lượng vật tư xây dựng cụ thể: 2398,5 m3 đá cấp phối; 481 m3 cát; 16 m3 đá lôka;

112 m3 đá 4x6; 53 m3 đá 1x2; 101 tấn xi măng với tổng số tiền là 964.177.500 đồng. Ông Cỏng đã thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên cho Triết bằng tiền mặt và chuyển khoản vào tài khoản ngân hàng cá nhân của Triết, sau khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho ông Cỏng.

- Bán hàng hóa cho ông Hoàng Đình B. Năm 2019, ông Ba mua của Triết số lượng 191 xe cát để hỗ trợ xây dựng cho chùa Trùng Sơn Cổ Tự tọa lạc tại huyện Ninh Hải và bán lại cho ông Nguyễn Văn Quyết (chưa rõ lai lịch) ở huyện Thuận Nam. Ông Ba đã thanh toán toàn bộ số tiền 133.700.000 đồng cho Triết bằng tiền mặt và chuyển khoản vào tài khoản cá nhân của Triết, sau khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho ông Ba.

- Nhận thi công lại phần nhân công hạng mục đóng cốp pha nhà điều hành 220KV dự án điện mặt trời Đức Long Gia Lai cho Công ty TNHH Đầu tư Hóa Phan Việt Nam (Công ty Hóa Phan). Năm 2019, Công ty Hóa Phan là thầu phụ thi công nhà điều hành dự án Đức Long Gia Lai ở xã Phước Minh, huyện Thuận Nam. Ông Trần Văn Th là nhân viên kỹ thuật Công ty Hóa Phan đã liên hệ với Triết để thi công phần nhân công đóng cốp pha với số tiền nhân công theo thỏa thuận là 152.000.000 đồng. Thi công xong, Công ty Hóa Phan đã chuyển số tiền nêu trên vào tài khoản của cá nhân Triết và tài khoản của nhân viên Công ty Đồng Tâm (theo yêu cầu của Triết), khi thanh toán xong thì Triết không xuất hóa đơn cho Công ty Hóa Phan.

- Nhận thi công Móng trụ pin mặt trời Nhà máy điện mặt trời Đức Long Gia Lai cho Công ty cổ phần Năng Lượng Xanh. Năm 2019, Công ty Năng Lượng Xanh là thầu phụ xây dựng dự án Đức Long Gia Lai ở xã Phước Minh, huyện Thuận Nam. Ông Trần Văn D là nhân viên Công ty Năng Lượng Xanh đã thỏa thuận với Triết thi công móng trụ pin với tổng số 1.288 móng trụ pin tương đương số tiền 540.960.000 đồng. Sau khi thi công, Triết yêu cầu Dương chuyển toàn bộ số tiền nêu trên vào tài khoản cá nhân của Triết, khi thanh toán xong Triết không xuất hóa đơn cho Công ty Năng Lượng Xanh.

Tại Kết luận giám định ngày 28/8/2020 của Cục thuế tỉnh Ninh Thuận xác định: Số tiền trốn thuế là 268.130.996 đồng ( Hai trăm sáu mươi tám triệu một trăm ba mươi ngàn chín trăm chín mươi sáu đồng). Trong đó: Thuế giá trị gia tăng là 195.858.996 đồng ( Một trăm chín mươi lăm triệu tám trăm năm mươi tám ngàn chín trăm chín mươi sáu đồng), thuế thu nhập doanh nghiệp là 72.272.000 đồng (Bảy mươi hai triệu hai trăm bảy mươi hai ngàn đồng).

Quá trình điều tra, Nguyễn Như Minh T đã thừa nhận hành vi trốn thuế của mình và sử dụng số tiền trốn thuế vào mục đích cá nhân, bị cáo đồng ý với Kết luận giám định của Cục thuế tỉnh NT Cáo trạng số 31/CT-VKSPR ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Như Minh T về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 200 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Triết đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Như Minh T về tội “ Trốn thuế ” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 200; điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Như Minh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo.

Bị cáo đồng ý với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện nguyên đơn dân sự Cục thuế tỉnh Ninh Thuận – Ông Lưu T trình bày: Đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Về số tiền bị cáo trốn thuế, buộc bị cáo nộp lại để sung vào ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nên đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Như Minh T là chủ sở hữu và là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Xây dựng Dịch vụ và Thương mại Đồng Tâm Ninh Thuận, có trụ sở tại số 106 Đoàn Thị Điểm, chung cư C4, phường Thanh Sơn, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty, từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2019, Nguyễn Như Minh T bán hàng hóa gồm xi măng, sắt, cát, đá cho 05 cá nhân, tổ chức và nhận thi công một số hạng mục công trình cho Công ty TNHH đầu tư Hóa Phan Việt Nam và Công ty cổ phần Năng Lượng Xanh tại Dự án điện mặt trời Đức Long Gia Lai với tổng số doanh thu là 1.958.589.958 đồng( Một tỷ chín trăm năm mươi tám triệu năm trăm tám mươi chín ngàn chín trăm năm mươi tám đồng) nhưng không xuất hóa đơn bán hàng nhằm trốn thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Kết luận giám định ngày 28/8/2020 của Cục thuế tỉnh Ninh Thuận kết luận tổng số tiền mà bị cáo trốn thuế là 268.130.996 đồng ( Hai trăm sáu mươi tám triệu một trăm ba mươi ngàn chín trăm chín mươi sáu đồng), trong đó: Thuế GTGT là 195.858.996 đồng ( Một trăm chín mươi lăm triệu tám trăm năm mươi tám ngàn chín trăm chín mươi sáu đồng), thuế TNDN là: 72.272.000 đồng ( Bảy mươi hai triệu hai trăm bảy mươi hai ngàn đồng). Bị cáo sử dụng số tiền trốn thuế vào mục đích cá nhân. Vì vậy, Cáo trạng số: 31/CT-VKSPR ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Như Minh T về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 200 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định về quản lý thuế và các quy định trong lĩnh vực quản lý và sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng của Nhà nước; gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, gây ảnh hưởng đến hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, gây tiêu cực nhiều mặt trong đời sống xã hội. Bản thân bị cáo mặc dù thấy được hậu quả của việc trốn thuế, nhận thức được sự nghiêm khắc của pháp luật khi phát hiện có hành vi trốn thuế, tuy nhiên, vì mục đích vụ lợi nên trong thời gian từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2019, bị cáo đã lợi dụng hoạt động kinh doanh của Công ty do bị cáo làm chủ để bán hàng hóa, thi công công trình mà không xuất hóa đơn nhằm thực hiện việc trốn thuế với tổng số tiền là 268.130.996 đồng. Vì vậy, cần phải áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để quyết định mức hình phạt tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện qua việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã tự giác nộp lại một phần số tiền trốn thuế để khắc phục hậu quả; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được việc làm sai trái của mình để có hướng sửa chữa lỗi lầm; ông của bị cáo là người có công với Nhà nước. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Mặt khác, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền trốn thuế là 268.130.996 đồng cho Cục thuế tỉnh Ninh Thuận để sung vào ngân sách Nhà nước nhưng được trừ đi số tiền 30.000.000 đồng mà bị cáo đã nộp khắc phục hậu quả tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nên số tiền bị cáo còn lại phải tiếp tục nộp là 238.130.996 đồng.

[6] Đối với bà Nguyễn Thanh B1 là kế toán của Công ty Đồng Tâm trong giai đoạn từ tháng 07/2019 đến tháng 01/2020. Xét thấy, mặc dù bà Bình là người theo dõi sổ sách, công nợ của công ty; tuy nhiên bà Bình không biết việc Triết mua bán hàng hóa không xuất hóa đơn đầu ra với mục đích trốn thuế và bà không hưởng lợi từ việc trốn thuế nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Đối với hành vi kinh doanh, buôn bán các loại hàng hóa vật tư xây dựng nhưng không xuất hóa đơn bán hàng cho đơn vị mua hàng của Công ty TNHH Toàn Tâm Ninh Thuận. Cơ quan CSĐT Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm đã thông báo đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Ninh Phước tiến hành xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 200; Điều 35; điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như Minh T phạm tội “Trốn thuế”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Như Minh T 06( Sáu ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 ( mười hai ) tháng kể từ ngày tuyên án.

Phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Như Minh T phải nộp 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

Giao bị cáo Nguyễn Như Minh T cho Uỷ ban nhân dân xã Phước Diêm, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Như Minh T phải nộp cho Cục thuế tỉnh Ninh Thuận số tiền trốn thuế còn lại là 238.130.996 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước. Giao số tiền 30.000.000 đồng mà bị cáo Nguyễn Như Minh T đã nộp khắc phục hậu quả theo Biên lại thu tiền số 0004704 ngày 29/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm cho Cục thuế tỉnh Ninh Thuận để sung vào ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Như Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, sơ thẩm có mặt bị cáo, đại diện nguyên đơn dân sự; quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1629
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trốn thuế

Số hiệu:88/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về