Bản án 88/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 88/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 45/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2021/QĐ-ST ngày 05 tháng 5 năm 2021; Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 09/TB-TA ngày 11/6/2021 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1996.

Địa chỉ: thôn XLĐ, xã QX, huyện QP, tỉnh Thái Bình. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu V, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: thôn BT, xã TL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ hiện nay: ĐL. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản lấy lời khai, nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày:

- Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Nguyễn Hữu V được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện KM (nay là thị xã KM), tỉnh Hải Dương vào ngày 20/4/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị thuê nhà trọ ở thành phố Hải Dương sinh sống, chỉ cuối tuần mới về ở cùng bố mẹ chồng tại thôn BT, xã TL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân của mâu thuẫn là khi anh chị lấy nhau đã không tìm hiểu kỹ về tính cách, tình cảm cũng như hoàn cảnh gia đình dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, có khi xảy ra xung đột. Chị và anh V cũng đã cùng ngồi lại để tìm cách khắc phục mâu thuẫn, tuy nhiên vẫn không thể tìm được tiếng nói chung. Do mâu thuẫn kéo dài đã lâu mà không có biện pháp khắc phục, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn XLĐ, xã QX, huyện QP, tỉnh Thái Bình từ cuối năm 2017. Hai vợ chồng sống ly thân kể từ đó đến nay, không còn liên lạc hay quan tâm gì đến nhau. Thời điểm cuối năm 2018, anh V đã làm đơn ly hôn gửi cho chị ký, nhưng khi chị gửi lại để anh V đi làm thủ tục ly hôn thì anh V mới nói với chị là đã đi sang ĐL làm ăn, còn đi làm việc gì hay địa chỉ cụ thể ở đâu thì anh V không nói. Chị được biết hiện nay anh V đang cư trú, sinh sống và làm ăn tại ĐL nhưng chị không biết địa chỉ cụ thể. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Hữu V.

- Về con chung: Chị H xác định vợ chồng chưa có con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Đối với tài sản riêng, nợ riêng của chị (hoặc anh V) nếu có thì giữa anh chị cũng không có liên quan gì đến nhau.

Trong quá trình giải quyết vụ án do chị H không cung cấp được địa chỉ của anh V tại ĐL, nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã xác minh qua gia đình anh V, đồng thời yêu cầu gia đình cung cấp địa chỉ của anh V. Bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ anh V xác định, anh V hiện lao động tại ĐL, bà không biết địa chỉ của anh V nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh V thường xuyên liên lạc về gia đình. Theo bà L cung cấp thì sau khi kết hôn vợ chồng anh V và chị H thuê nhà trọ đi làm ở thành phố Hải Dương, không ở cùng với gia đình bà, chỉ cuối tuần được nghỉ mới về ở cùng vợ chồng bà ở quê. Sau khi kết hôn được khoảng gần 2 năm thì chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh V có nói với bà là hai vợ chồng mâu thuẫn nên sống ly thân nhau. Đầu tháng 12/2018, anh V đi ĐL làm ăn nhưng không nói cho bà rõ địa chỉ, nơi làm việc ở đâu. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh V biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà L xác định đã thông tin cho anh V biết. Anh V có quan điểm trước khi anh V đi nước ngoài, anh V và chị H đã có ý định ly hôn nhưng chưa kịp làm thủ tục ly hôn. Nay chị H lại làm đơn xin ly hôn, quan điểm anh V nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt và có quan điểm giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn anh V vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn chấp hành đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Xử cho chị Lương Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hữu V; Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, quan điểm của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Lương Thị H có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương giải quyết việc ly hôn giữa chị với anh Nguyễn Hữu V. Anh V hiện đang sinh sống và lao động tại ĐL. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh V ở ĐL. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh V cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Tại phiên tòa chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt chị H, anh V.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị H và anh Nguyễn Hữu V được tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TL, huyện KM (nay là thị xã KM), tỉnh Hải Dương vào ngày 20/4/2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, hai bên không quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, thông qua gia đình, anh V có quan điểm nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị H. Xét thấy thực tế anh chị không chung sống cùng nhau từ nhiều năm và không còn quan tâm đến nhau. Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn của chị H và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị H xin ly hôn anh V là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Chị H xác định vợ chồng chưa có con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1]. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Lương Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hữu V.

[2]. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0005802 ngày 11/3/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. (Chị H đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí).

[3]. Về quyền kháng cáo: Chị Lương Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật; Anh Nguyễn Hữu V vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:88/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về