TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 88/2020/HSPT NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN, CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên toà phúc thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2020/HSPT ngày 22 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Trương Hùng C do có kháng cáo của bị cáo Trương Hùng C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2020/HSST ngày 18 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Bị cáo có kháng cáo: Trương Hùng C, sinh ngày: 21 tháng 5 năm 1989 tại huyện M, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn Y, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Sản xuất nông nghiệp; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Xuân N và bà Đinh Thị X; có vợ là Đinh Thị Ngọc B và có 02 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không Nhân thân: Ngày 26/8/2006 cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị Công an huyện Minh Hóa xử phạt vi phạm hành chính; Ngày 11/3/2012 cố ý gây thương tích bị Công an huyện Minh Hóa xử phạt vi phạm hành chính; Ngày 25/9/2014 tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, ngày 05/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 05 tháng tù bản án số 18/2015/HSST). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/02/2020, đến ngày 06/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Trương Hùng C: Bà Nguyễn Thị Diệu Linh – Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình. Có mặt Vụ án có các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và có các người làm chứng nhưng không liên quan đến kháng cáo của bị cáo; Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 28/02/2020, Trương Hùng C điều khiển xe ô tô BKS:
60C – 0495, dừng xe trên đoạn đường liên thôn thuộc địa phận thôn Ô, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Khi phát hiện xe ô tô BKS 73C – 105.17 do anh Trần Bảo S, sinh năm 1988 ở thôn 5 T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình điều khiển chở gà đến bán cho người dân thì C chặn xe của S lại và nói: "Đường này tau quản lý, muốn đi qua thì phải đưa tiền cho tau". Anh S xuống xe và nói không có tiền, nghe thấy vậy C liền đi đến xe ô tô của mình lấy 01 con dao dài 48 cm, cán được làm bằng gỗ dài 14 cm, lưỡi dao làm bằng kim loại, xông tới khua dao trước mặt anh S dọa chém và nói: "Mi thích chi, không đưa tiền tau chém chết". Do sợ C chém bị thương, anh S buộc phải đưa cho C số tiền 200.000 đồng. Khi C vừa lấy tiền từ anh S thì bị lực lượng Công an huyện Minh Hóa phát hiện bắt quả tang.
Tiến hành khám xét khẩn cấp phương tiện xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại 16 chỗ, BKS: 60C – 0495 của C điều khiển, tổ công tác phát hiện, thu giữ: 02 viên nén dạng thuốc tân dược màu hồng, trên mặt mỗi viên có ký hiệu "WY"; 01 chai nhựa hình trụ tròn dài 25 cm, màu trong suốt, trên thân chai có lỗ được gắn tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 5.000 đồng, cuộn tròn dài 6 cm, đường kính 0,5 cm (là công cụ để sử dụng ma túy); 02 con dao cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, trong đó có 01 con dao dài 30 cm, con dao còn lại dài 23 cm; 01 vật bằng nhựa hình hộp chữ nhật màu đen, dài 16 cm, rộng 4.5 cm, bên trên có 02 đầu kim loại màu trắng hình tròn, trên vật có ký hiệu "704" và dòng chữ "JIN SHANKOR".
Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, Trương Hùng C còn khai nhận trong thời gian tháng 02/2020, C dùng dao đe dọa cướp tài sản và đe dọa cưỡng đoạt tài sản của những thương lái đi bán gà tại xã H, huyện M, cụ thể:
Ngày 24/02/2020 sau khi phát hiện xe ô tô BKS 73C – 10829 do anh Nguyễn Bá T điều khiển vào thôn Y, xã H để bán gà cho người dân thì C điều khiển xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, BKS: 60C – 0495 đuổi theo, sau đó vượt lên phía trước và đỗ ngang đường không cho xe anh T đi ngang qua. Khi bị chặn đầu xe, anh T xuống xe thì lúc này C ngồi trên xe ô tô và hỏi anh T đi đâu, làm gì thì anh T trả lời đang chở gà đi bán. C tiếp tục hỏi vào bán gà đã xin phép ai chưa, có giấy tờ gì không và sau đó nói muốn đi bán gà thì phải nộp tiền cho C. Khi anh T xin xỏ, trình bày việc mình mới đi bán gà, không có tiền thì C tiếp tục nói đây là đường của C quản lý, nếu không nộp tiền thì không được đi đâu. Trong quá trình nói chuyện với anh T thì C cầm một con dao dài 48 cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, màu trắng bạc có lưỡi sắc, đầu dao tày ở trên tay. Sau khi tiếp tục xin C cho đi bán gà nhưng không được, anh T sợ sẽ xảy ra chuyện không may nên đã đồng ý đưa cho C số tiền 200.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, C nói với anh T sau này đi bán gà thì cứ thế, gặp C là phải đưa tiền nếu không sẽ không cho đi đâu.
Bằng thủ đoạn nói trên, vào khoảng đầu tháng 02/2020, khi phát hiện anh Trần Bảo S điều khiển xe ô tô BKS 73C – 10517 chở gà đi bán cho người dân ở xã H thì C đã ba lần vào ba ngày khác nhau chặn đầu xe, có lời nói đe dọa và chiếm đoạt số tiền 400.000 đồng. Trong đó lần đầu tiên là 200.000 đồng; hai lần tiếp theo mỗi lần 100.000 đồng.
Tiếp đó, vào các ngày 23/02/2020 và ngày 25/02/2020, khi phát hiện xe tải của anh Nguyễn Thanh H chở gà đến bán cho người dân tại thôn Y, xã H thì C cũng đã sử dụng xe ô tô BKS 60C – 0495 chặn đường và có lời nói đe dọa chiếm đoạt của anh H số tiền 400.000 đồng, mỗi lần 200.000 đồng.
Vào khoảng hơn 01 giờ sáng ngày 26/2/2020, khi phát hiện xe ô tô BKS: 73C – 10829 do anh Nguyễn Bá T điều khiển vào thôn Y, xã H để bán gà cho người dân, Trương Hùng C đã ra chặn trước đầu xe. Thấy thế, anh T xuống xe thì C lại gần và yêu cầu anh T phải đưa tiền cho C rồi mới được đi bán gà. Khi anh T xin C cho đi vì không có tiền thì C bắt đầu chửi bới và đe dọa để lấy tiền. Anh T vẫn tiếp tục nói chuyện với C thì lập tức C đi vào xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, BKS: 60C – 0495 để gần đó lấy từ trên xe một con dao dài 48 cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, màu trắng bạc có lưỡi sắc, đầu dao tày (là con dao mà C đã sử dụng để đe dọa chém anh S vào ngày 28/02/2020) đi ra chỗ anh T chửi bới, đưa dao lên trước mặt anh T và đe dọa sẽ chém ngay lập tức nếu anh T không chịu đưa tiền cho C. Do sợ bị C chém nên anh T buộc phải đưa số tiền 200.000 đồng cho C. Sau khi lấy tiền, C tiếp tục dùng dao và có những lời nói đe dọa một lúc sau mới chịu bỏ đi.
Quá trình điều tra, Trương Hùng C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Kết luận giám định số: 185/GĐ – PC09 ngày 02/03/2020 và bản Kết luận giám định số 209/GĐ – PC09 ngày 11/03/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận:
- Mẫu ký hiệu A: 02 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên mặt mỗi viên có in chữ "WY" gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,198g (không phẩy một trăm chín mươi tám gam).
(Methamphetamine ((+) – (S) – N – α – dimethylphenethylamine) nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.
- Mẫu ký hiệu A: 01 đồ vật có vỏ bằng nhựa màu đen kích thước (16 x 5 x 2,7 cm), một cạnh bên có 02 công tắc màu đỏ và 01 đèn báo màu đỏ; đầu cuối có giắc cắm điện, 01 công tắc và 01 đèn báo màu đỏ; một mặt có in các dãy kí tự "704 JSJ", mặt đối diện có dán nhãn ghi chữ "JINSHAN KOR", phần đầu gắn 02 điện cực bằng kim loại dài 0,6 cm, đường kính lớn nhất 1 cm, giữa hai điện cực gắn 01 đèn pin gửi giám định không phải là vũ khí quân dụng, là công cụ hỗ trợ có tính nắng, tác dụng tương tự dùi cui điện.
Cáo trạng số 15/CT-VKSMH ngày 12/5/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo Trương Hùng C về các tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự, tội "Cưỡng đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật hình sự, tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2020/HSST ngày 18/6/2020 của Toà án nhân dân Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình quyết định tuyên bố : Tuyên bố bị cáo Trương Hùng C phạm tội: “ Cướp tài sản”, tội “ Cưỡng đoạt tài sản”, tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm r, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Trương Hùng C 07 năm tù.
- Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm r, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Trương Hùng C 01 năm tù.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trương Hùng C 01 năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 07 năm tù về tội “ Cướp tài sản” và hình phạt 01 năm tù về tội “ Cưỡng đoạt tài sản” và hình phạt 01 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo Trương Hùng C phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là: 09 năm tù. Thời gian tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ( Ngày 29/02/2020).
Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng vụ án, tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, ngày 23/6/2020, Trương Hùng C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo Trương Hùng C khai, thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố và xét xử của án sơ thẩm. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì lý do án sơ thẩm xử bị cáo 09 năm tù là quá khắt khe, quá nặng.
Người bào chữa trình bày:
Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hóa và Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã xét xử, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định.
Về nội dung kháng cáo: Các quyết định của Bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt là có căn cứ, đúng pháp luật, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 355, 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trương Hùng C đã khai nhận, trong tháng 02/2020 bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi đe dọa để chiếm đoạt tài sản của người khác, trong đó C đã 02 lần có hành vi dùng dao đe đọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị hại không thể tự vệ được để chiếm đoạt tài sản của anh Trần Bảo S 200.000 đồng, anh Nguyễn Bá T 200.000 đồng và C có 06 lần dùng lời nói và hành vi đe dọa uy hiếp tinh thần để chiếm đoạt tài sản của anh Trần Bảo S 03 lần với số tiền 400.000 đồng và của anh Nguyễn Bá T 01 lần 200.000 đồng, của anh Nguyễn Thanh H 02 lần số tiền 400.000 đồng và C còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methaphetamin có khối lượng 0,198 gam.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, phù hợp với vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án.Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Trường Hùng C phạm các tội “ Cướp tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và phạm tội “ Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự và phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Hùng C:
Theo tính chất, mức độ vụ án; yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm về chiếm đoạt tài sản, tàng trữ ma túy như bị cáo đã thực hiện, sau khi xem xét hình phạt mà án sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo trong vụ án; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, Bản án sơ thẩm đã đánh giá, phân tích đúng, đầy đủ các tình tiết khi quyết định hình phạt để xử phạt bị cáo các tội với mức án 09 năm tù là nghiêm minh và đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết mới, chưa bồi thường Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Hùng C để giảm nhẹ hình phạt.
[3] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt là có cơ sở.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
[5] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356; khoản 2 các Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Hùng C và giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Hùng C 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Hùng C 01 (một) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Hùng C 01 (một) năm tù tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 07 năm tù về tội “ Cướp tài sản” và hình phạt 01 năm tù về tội “ Cưỡng đoạt tài sản” và hình phạt 01 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo Trương Hùng C phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 29/02/2020.
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày xét xử phúc thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án, (có quyết định tạm giam riêng của Hội đồng xét xử).
2. Bị cáo Trương Hùng C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 24 tháng 8 năm 2020).
Bản án 88/2020/HSPT ngày 24/08/2020 về tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 88/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về