Bản án 88/2020/HSPT ngày 10/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 88/2020/HSPT NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 101/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn M, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HSST ngày 05/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Văn M, sinh năm 1993, tại phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Khu dân cư K, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Nguyễn Văn V và con bà Phùng Thị D; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 305/QĐ-XPVPHC ngày 21/8/2015 đối với Nguyễn Văn M về hành vi "Xâm hại sức khỏe của người khác". M đã chấp hành xong ngày 20/11/2015 (đã xóa).

Bị cáo bị tạm giam tạm Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 02/6/2019 đến nay. (Có mặt) - Bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Cao C, sinh năm 1990.

Địa chỉ : Khu dân cư N 7, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Có mặt) 1963.

 - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên qu an: Ông Nguyễn Đình T, sinh năm mặt) Địa chỉ : Khu dân cư N 7, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Có - Những người làm chứng :

1. Anh Vũ Đình K, sinh năm 1983; địa chỉ: Khu dân cư N 6, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Chị Lê Thị A, sinh năm 1980; địa chỉ: Khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

3. Cháu Nguyễn Tấn D, sinh năm 2002; địa chỉ: Khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Người giám hộ cho cháu D: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1977; địa chỉ: Khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

4. Cháu Nguyễn Thị H, sinh năm 2003; địa chỉ: Khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Người giám hộ cho cháu H: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

5. Anh Ngô Văn G, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn N, xã Thanh Luận, huyện Đ, tỉnh Bắc Giang.

6. Anh Cao Minh Y, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn L, xã M, huyện G, tỉnh Thanh Hóa.

(Những người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 20 tháng 4 năm 2019, Nguyễn Văn M nhìn thấy anh Nguyễn Tấn D, sinh năm 2002, trú tại thôn B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương (anh D là con nuôi của chị Lê Thị A, sinh năm 1980, trú tại: khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương) đi vào dãy nhà trọ của ông Nguyễn Xuân Trường, sinh năm 1945, trú tại số 11, đường Kim Đồng, khu dân cư H 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. M về nói với anh Vũ Đình K, sinh năm 1983, trú tại khu dân cư N 6, phường H, thành phố C. Anh K nghĩ là D đang ở cùng với chỗ chị A nên sau khi điện cho chị A không được, anh K bảo M đi cùng K đến nhà trọ trên với mục đích tìm chị A để nói chuyện về quan hệ tình cảm giữa hai người. Anh K điều khiển xe máy biển kiểm soát 34B3-146.87, loại xe Honda Blade màu đen đỏ (xe mượn của anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1976. trú tại khu dân cư M, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương) chở M đeo khẩu trang ngồi sau tới dãy nhà trọ nhà ông B. Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày anh K, M đến nhà trọ, anh K bảo M "mày nhìn mấy phòng xem chị A và D có ở đây không". Tại phòng trọ số 3 có Lê Thị A, Nguyễn Tấn D, Nguyễn Thị H, sinh năm 2003 trú tại khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương đang nằm trên chiếu trải dưới nền nhà và Nguyễn Cao C, sinh năm 1990, trú tại khu dân cư N 7, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương đang nằm ngủ trên giường, đầu quay ra hướng cửa ra vào. Do cửa phòng trọ số 3 mở nên M nhìn thấy chị A và chỉ cho anh K biết. Anh K đi vào đến cửa phòng thì chị A đứng dậy, chạy ra ôm giữ, đẩy K ra phía ngoài cửa. Anh K hỏi "sao mày lại ở đây, mày ở đây lâu chưa ? Sao mày lại lừa tao", chị A trả lời "em mới ở đây được hai tuần". Thấy anh K và chị A cãi nhau, M đi vào trong phòng trọ thấy anh C đang nằm trên giường. M nghĩ anh C có quan hệ tình cảm với chị A dẫn đến việc anh K và chị A cãi nhau nên M tiến lại gần vị trí của C nằm, dùng tay tát vào người của C làm C tỉnh dậy và nói "sao mày lại ở đây". M dùng tay phải rút con dao gấpbằng kim loại màu sáng, có chiều dài là 14cm, lưỡi dao bằng kim loại màu sáng dài 4,5cm, mũi nhọn, một phần lưỡi sắc, phần rộng nhất của lưỡi dao rộng 2cm trong túi quần bên phải (M để trong túi quần để cắt dây câu khi đi câu cá) đâm theo chiều từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, C ngồi co người, giơ tay chân lên đỡ thì bị M đâm trúng một nhát vào tay, một nhát vào chân. Anh C xuống giường, đi lùi về phía góc nhà cạnh phòng tắm, M đi theo áp sát C, kéo khẩu trang ra nói" mày biết bố mày là ai không?" và tiếp tục dùng dao đâm về phía anh C 6 đến 7 nhát, anh C giơ tay chân lên đỡ nên bị M đâm trúng vào tay trái, tay phải, chân trái, ngực phải. Thấy anh C chảy nhiều máu nên M dừng lại, yêu cầu anh C quỳ xuống nền nhà nhưng anh C không quỳ, M dùng dao đâm tiếp một nhát vào bắp tay trái của anh C, tiếp tục bắt anh C quỳ xuống và túm vai kéo anh C ra phía ngoài cửa nói "ra ngoài nói chuyện". Anh C nói "anh đi ra trước để em đi ra sau". M đi ra phía ngoài cửa trước, anh C đi theo sau. Trong lúc M đâm anh C thì anh K và chị A vẫn cãi nhau, anh K rút dao gấp cầm sẵn trong người làm bằng kim loại màu sáng, dài 32,5cm, phần lưỡi dài 12,5cm, lưỡi dao nhọn, loại có một lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao rộng 1,5cm để dọa chị A. Khi anh C đi ra ngoài cửa thì thấy anh K cầm dao, M đi ra bảo anh K đưa dao cho M và cất vào túi quần phía sau đang mặc. Anh C đi ra phía ngoài cổng nhà trọ thì anh K nhìn thấy bảo "M, giữ nó lại để nói chuyện", nghe thấy vậy, anh C đi quay lại phòng số 3, chốt cửa phía trong. Anh K dùng tay tát vào mặt, đầu chị A và kéo chị A lên xe máy do M điều khiển đi về nhà anh Nguyễn Thế H, sinh năm 1978, trú tại khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương nói chuyện.

Sau khi gây án, M đi khỏi địa phương đến ngày 12 tháng 5 năm 2019, M đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Trong quá trình bỏ trốn, M sống lang thang không nơi cư trú rõ ràng, không thực hiện hành vi phạm tội nào. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã thu giữ 01 USB trong đó có 03 tệp tin video ghi lại hình ảnh diễn biến sự việc tại xóm trọ của ông Nguyễn Xuân Trường vào ngày 20 tháng 4 năm 2019; 01con dao gấp, bằng kim loại màu sắng, có chiều dài là 14cm, lưỡi dao bằng kim loại màu sáng dài 4,5cm, lưỡi dao có mũi nhọn, một phần lưỡi sắc, phần rộng nhất của lưỡi dao rộng 2cm là dao M gây thương tích cho anh C và 01 con dao gấp bằng kim loại màu sáng, dài 32,5cm, phần lưỡi dài 12,5cm, lưỡi dao nhọn, loại có một lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao rộng 1,5cm là dao của anh K.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 91/TgT ngày 22/5/2019, Phòng giám định pháp y - Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Cao C do thương tích gây nên hiện tại là 24% (hai mươi bốn phần trăm).

Tại bản Kết luận giám định số 354/C09-P6 ngày 29 tháng 7 năm 2019 và Kết luận giám định số 117/C09-P6 ngày 15 tháng 5 năm 2020, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an xác định: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các mẫu cần giám định A1, A2; Có sự không liên tục về thời gian và chuyển động trong mẫu cần giám định A3 (do lỗi kỹ thuật) Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 05/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố C đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 45 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích", thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/6/2019. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, 585, 590 BLDS ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo: Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải bồi thường cho anh Nguyễn Cao C số tiền 49.916.000 đồng. Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu lãi suất do chậm thực hiện bồi thường, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/6/2020, bị cáo Nguyễn Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/6/2020, bị hại anh Nguyễn Cao C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị xác định Vũ Đình K có hành vi đồng phạm với bị cáo M về tội cố ý gây thương tích.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Văn M giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Bị hại anh Nguyễn Cao C giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị xem xét hành vi đồng phạm của Vũ Đình K do trước đó giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì. Nguyên nhân dẫn đến việc M gây thương tích cho anh là do Vũ Đình K có nghi ngờ anh có quan hệ tình cảm với chị Lê Thị A. Vũ Đình K còn có lời nói xúi giục, kích động bị cáo M gây thương tích và ngăn cản không cho anh chạy thoát thân. Theo camera anh được xem có hình ảnh của K và M cùng đi vào khu nhà trọ và sau đó xảy ra việc M gây thương tích cho anh. Về dân sự: Yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm tiền mất thu nhập của bị hại do không lao động được sau khi điều trị thương tích.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa sau khi phân tích các tình tiết trong vụ án, xác định cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo M về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Mức hình phạt tại bản án sơ thẩm là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với kháng cáo của bị hại: Căn cứ hình ảnh trích xuất từ camera thu giữ đã được giám định, lời khai của những người làm chứng trực tiếp, lời khai của bị cáo M, xác định không có tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi đồng phạm của Vũ Đình K, về trách nhiệm dân sự giữ nguyên như bản án sơ thẩm. Đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo M, không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo, bị hại kháng cáo trong thời hạn luật định nên là kháng cáo hợp lệ.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt:

Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cơ bản phù hợp với một phần lời khai bị hại, những người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 20 tháng 4 năm 2019 tại phòng trọ số 3, của ông Nguyễn Xuân B ở đường K, khu dân cư H 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn M nghi ngờ anh Nguyễn Cao C có quan hệ tình cảm với chị Lê Thị A nên đã có hành vi dùng dao gấp, bằng kim loại sáng màu, có chiều dài 14cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 4,5cm, đâm nhiều nhát vào vùng ngực phải, tay trái, tay phải, chân trái của anh Nguyễn Cao C, làm anh C bị thương phải đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 24%. Bị cáo Nguyễn Văn M gây thương tích cho bị hại bằng dao gấp, là “dùng hung khí nguy hiểm”, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, không có nguyên cớ gì nên thuộc trường hợp “Có tính chất côn đồ”. Bị cáo đâm bị hại không nhằm vào vị trí cụ thể nào trên cơ thể bị hại, khi bị hại xin và bị cáo thấy bị hại chảy nhiều máu thì bị cáo dừng lại và bảo bị hại đi ra ngoài nói chuyện, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo M về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Về tội danh bị cáo, bị hại không kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy: Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tình giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú theo quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại thuộc trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ, tính chất hành vi của bị cáo quyết liệt, thể hiện sự hung hăng, coi thường pháp luật, nên mức hình phạt 45 tháng tù đối với bị cáo như cấp sơ thẩm xét xử là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo M, giữ nguyên hình phạt tại bản án sơ thẩm.

[3] Xét kháng cáo của bị hại thấy rằng:

Tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa bị hại đều xác định Vũ Đình K không trực tiếp gây thương tích cho bị hại, thương tích của bị hại do bị cáo M gây ra. Bị hại trình bày K có lời nói, hô hào, xúi giục M. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của những người làm chứng là chị Vũ Thị H xác định: Khi thấy anh K đến, chị A chạy ra ôm và đẩy anh K ở khu vực ngoài cửa, anh K chửi và tát chị A. Chị A không nghe thấy anh K nói nội dung như bị hại khai. Những người làm chứng khác là anh D, chị H, có mặt ngay tại hiện trường đều xác định không nghe thấy anh K nói nội dung trên. Như vậy, lời khai của những người làm chứng phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của M và anh K, phù hợp với nội dung hình ảnh trích xuất từ camera đã được giám định không cắt ghép, chỉnh sửa và được trình chiếu tại phiên tòa phúc thẩm. Đối với nội dung này, TAND thành phố C đã trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu thu thập tài liệu chứng cứ xác định rõ nội dung này nhưng không có căn cứ. Kết quả điều tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm, chỉ duy nhất có lời khai của bị hại về hành vi của Vũ Đình K có lời nói kích động, xúi giục M, ngoài ra không còn căn cứ nào khác, nên không đủ căn cứ chứng minh hành vi đồng phạm của Vũ Đình K. Do vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị hại.

Bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm tiền mất thu nhập cho bị hại do không lao động được sau khi điều trị thương tích, nhưng chưa cung cấp chứng cứ, chứng minh về nội dung này. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại không yêu cầu xem xét khoản yêu cầu này. Khi thu thập đầy đủ chứng cứ sẽ khởi kiện vụ kiện dân sự khác, nên HĐXX không xem xét nội dung này và giữ nguyên phần bồi thường tại bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, HĐXX không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M; không chấp nhận kháng cáo của bị hại anh Nguyễn Cao C; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 05/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 45 (Bốn mươi lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/6/2019.

3. Về hình trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải bồi thường cho anh Nguyễn Cao C số tiền 49.916.000 đồng (Bốn mươi chín triệu chín trăm mười sáu nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án làm đơn yêu cầu, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS.

4. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm hình sự.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày 10/9/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2020/HSPT ngày 10/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:88/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về