Bản án 88/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 88/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 258/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2020/QĐXX-ST ngày 09/11/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vương Thị L, sinh năm 1995 Hộ khẩu thường trú: Thôn Th, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở hiện nay:

Thôn Tr, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn Th, xã Ch, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Chị L, anh Đ có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Vương Thị L có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn Đ trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q (nay là xã Ch), huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 09/9/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà anh Đ ở thôn Th, xã Ch, huyện Q. Vợ chồng hòa thuận được 01 năm là phát sinh mâu thuẫn nhưng lúc đầu mâu thuẫn chưa lớn. Đến ngày 31/8/2020, vợ chồng mâu thuẫn lớn, nguyên nhân là do anh Đ tự dựng chuyện bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của chị và gia đình bố mẹ đẻ chị. Nói chị đi ngoại tình trong khi chị cùng bố mẹ chồng và con trai đang sinh hoạt tại nhà anh Đ khiến cho gia đình hai bên không vui. Vợ chồng đã ly thân từ ngày 31/8/2020 đến nay, hiện chị về nhà bố mẹ đẻ ở xóm 4, thôn Tr, xã Q sinh sống. Nay Chị L xác định hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Chị Vương Thị L trình bày, chị và anh Nguyễn Văn Đ có có 01 con chung là Nguyễn Thành L1, sinh ngày 07/7/2017. Ly hôn, Chị L đề nghị Tòa án giao con cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu anh Đ góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị 1.000.000 đồng/ tháng kể từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Lý do chị nhận trực tiếp nuôi con vì con Luân còn nhỏ, cần sự chăm sóc của chị nhiều hơn. Hiện tại chị đang làm việc tại công ty TNHH Sao Vàng, có địa chỉ ở xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình thu nhập trung bình khoảng từ 05 đến 06 triệu đồng/tháng nên có điều kiện nuôi dưỡng con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Tại bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình và tại phiên tòa, bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ có ý kiến trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đ xác nhận về thời gian, hoàn cảnh, điều kiện kết hôn như Chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà anh ở thôn Th, xã Ch, huyện Q. Vợ chồng hạnh phúc đến ngày 31/8/2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do thiếu sự quan tâm, chia sẻ, bất đồng quan điểm sống và va chạm trong lời nói hàng ngày. Tuy nhiên anh Đ cho rằng đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, chưa đến mức phải ly hôn. Từ khi Chị L về bên nhà bố mẹ đẻ sinh sống cũng như trong quá trình Tòa án giải quyết, anh và gia đình đã đến gặp gỡ Chị L và bố mẹ vợ để xin lỗi, động viên Chị L về đoàn tụ nhưng Chị L không về. Nay Chị L xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn và vì trách nhiệm với con cái nên anh không nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thành L1, sinh ngày 07/7/2017 đúng như Chị L trình bày, hiện con chung đang ở cùng anh từ thứ hai đến thứ sáu, cuối tuần thì Chị L đón về bên ngoại. Anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con. Trường hợp Chị L cương quyết ly hôn và Tòa án giải quyết ly hôn, anh Đ nhất trí để Chị L trực tiếp nuôi con vì con cần mẹ hơn và nhất trí góp tiền cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng theo yêu cầu của Chị L. Anh được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đ trình bày vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Xử cho chị Vương Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ; về con chung: đề nghị giao con chung Nguyễn Thành L1, sinh ngày 07/7/2017 cho Chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/01 tháng kể từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung; về tài sản chung, nợ chung: không đặt ra giải quyết; về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật, bị đơn phải chịu án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Vương Thị L và anh Nguyễn Văn Đ là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ thường trú tại thôn Th, xã Ch, huyện Q nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của Chị L, anh Đ được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thiếu sự quan tâm, chia sẻ với nhau dẫn tới xảy ra va chạm. Chị L cho rằng anh Đ có hành động xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của chị và gia đình bố mẹ đẻ chị nên cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Anh Đ mong muốn vợ chồng đoàn tụ vì cho rằng mâu thuẫn nhỏ và vợ chồng cần có trách nhiệm chung để nuôi dạy con cái. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán đã kiên trì hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, gia đình hai bên cũng đã gặp gỡ, động viên vợ chồng nhưng không có kết quả. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ cuối tháng 8 năm 2020 đến nay. Như vậy có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị L, anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử cần xử cho ly hôn là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị L, anh Đ có 01 con chung là Nguyễn Thành L1, sinh ngày 07/7/2017. Hiện nay con chung đang ở cùng anh Đ từ thứ 2 đến thứ 6, cuối tuần thì ở cùng Chị L. Ly hôn, Chị L đề nghị Tòa án giao con Luân cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu anh Đ góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị 1.000.000 đồng/tháng. Anh Đ do không nhất trí ly hôn nên muốn hai vợ chồng cùng nuôi dạy con. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, anh đồng ý để Chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung và nhận cấp dưỡng theo mức mà Chị L yêu cầu. Xét thấy nguyện vọng được nuôi con chung của Chị L là chính đáng. Hiện nay Chị L đi làm có thu nhập, có điều kiện về sinh hoạt đảm bảo cho con. Mặt khác con còn nhỏ, bản thân anh Đ cũng nhận định con cần mẹ hơn do đó Hội đồng xét xử cần giao con chung Nguyễn Thành L1 cho Chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Vương Thị L và anh Nguyễn Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Vương Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm, anh Nguyễn Văn Đ phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vương Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao chị Vương Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thành L1, sinh ngày 07/7/2017. Anh Nguyễn Văn Đ có nghĩa vụ góp cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Vương Thị L số tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng)/01 tháng kể từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 482 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.

3. Về quan hệ tài sản chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vương Thị L phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí Chị L đã nộp tại biên lai số 0004550 ngày 07/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí;

Anh Nguyễn Văn Đ phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vương Thị L, anh Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/11/2020).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:88/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về