Bản án 88/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 88/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 135/2020/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2020, về việc “Ly hôn, nuôi con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/7/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/7/2020, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh ngày 18/5/1986. HKTT: Xóm 12, thôn Th, xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương. Hiện ở: Xóm 10, thôn V, xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Chị Đồng Thị Ng, sinh ngày 21/02/1990.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm 12, thôn Th, xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bầy: Anh và chị Đồng Thị Ng được tự do tìm hiểu nhau và tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương vào ngày 13/12/2010. Sau ngày cưới vợ chồng về sống chung với bố mẹ anh tại xóm 10, thôn V, xã K, K1, Hải Dương được 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Năm 2012 anh đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, đến năm 2015 chị Đồng Thị Ng cũng sang Đài Loan lao động cùng với anh nhưng hai vợ chồng ở 2 thành phố khác nhau, xa nhau, thỉnh thoảng mới gặp nhau. Thời gian đó hai vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì. Nhưng đến năm 2016 anh về nước và anh cũng có yêu cầu chị Nguyệt về nước cùng với anh để xây dựng kinh tế gia đình nhưng hết lần này đến lần khác chị Ng đều hứa nhưng không về và chị Nguyệt thờ ơ không có tình cảm với anh. Lần cuối cùng khoảng đầu năm 2020 anh có gọi điện sang yêu cầu chị Ng về Việt Nam vợ chồng đoàn tụ nhưng chị Ng trả lời là sẽ không quay về với anh nữa. Do đó anh nhận thấy vợ chồng đã không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đồng Thị Ng.

Hiện nay, chị Ng đang lao động bên Đài Loan nhưng địa chỉ cụ thể của chị Nguyệt bên đó như thế nào anh không nắm được, anh được biết chị Ng vẫn liên lạc điện thoại về nhà cho mẹ chị Ng và chị Ng cũng biết việc anh nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án.

+ Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung là Nguyễn Tùng D, sinh ngày 08/10/2011. Hiện nay con chung đang ở với anh, khi ly hôn anh đề nghị được nuôi con chung và tự nguyện không yêu cầu chị Ng cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng với anh.

+ Về tài sản chung, nợ chung: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc, anh H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

Quá trình giải quyết vụ án, anh H không cung cấp được địa chỉ của chị Đồng Thị Ng tại Đài Loan. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của bà Đồng Thị Nh là mẹ đẻ chị Ng, bà Nh xác nhận chị Ng vẫn thỉnh thoảng liên lạc về nhà. Tòa án yêu cầu bà Nh cung cấp địa chỉ của chị Ng ở Đài Loan và yêu cầu chị Ng gửi văn bản trình bày ý kiến, quan điểm của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của anh H, nhưng bà Nh không cung cấp được địa chỉ của chị Ng, chị Ng cũng không có văn bản gửi về. Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà Nh, đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà Nh xác định đã thông tin cho chị Ng biết, chị Ng có quan điểm nhất trí ly hôn với anh H và nhất trí giao con cho anh H nuôi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.

- Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị tham gia phiên tòa, Thẩm phán cơ bản đã chấp hành đúng quy định của BLTTDS về việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự và gửi đầy đủ các văn bản tố tụng, hồ sơ để Viện kiểm sát nghiên cứu theo quy định của BLTTDS. Tuy nhiên về thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 476 BLTTDS.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa.

- Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về phiên tòa sơ thẩm.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án.

- Người tham gia tố tụng cơ bản thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Viện kiểm sát không phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H không cung cấp được địa chỉ của chị Ng tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án đã hai lần yêu cầu gia đình chị Nguyệt cung cấp địa chỉ, cũng như thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị Ng biết để gửi lời khai về cho Tòa án, nhưng gia đình không cung cấp được và không thực hiện yêu cầu của Tòa án, đồng thời Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Nên áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Anh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Nguyệt vắng mặt lần thứ hai. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H, chị Ng.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H và chị Đồng Thị Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương vào ngày 13/12/2010, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống từ năm 2016. Anh H đề nghị chị Ng về nước để chăm lo cho gia đình tuy nhiên chị Ng không đồng ý. Vợ chồng xảy ra cãi nhau. Đến năm 2020 anh H tiếp tục điện sang cho chị Ng yêu cầu chị Ng về Việt Nam để gia đình đoàn tụ nhưng chị Nguyệt trả lời sẽ không về với anh. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Ng. Về phía chị Ng cũng đã được gia đình cho biết Tòa án đang giải quyết ly hôn theo đơn xin ly hôn của anh H. Chị Ng cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã sống ly thân được gần 4 năm nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Tùng D, sinh ngày 08/10/2011, hiện nay anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng con. Ly hôn anh H có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu chị Nguyệt phải cấp dưỡng. Chị Ng cũng nhất trí với quan điểm của anh H và cũng phù hợp với quan điểm của cháu Tùng D là có nguyện vọng được ở với bố. Do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của anh H. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị Ng phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng không xem xét.

[3].Về án phí: Anh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn H được ly hôn chị Đồng Thị Ng.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Tùng D, sinh ngày 08/10/2011 cho anh H nuôi dưỡng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị Ng phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con:

Chị Ng được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản, nợ chung: Anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002681 ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Anh Nguyễn Văn H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Đồng Thị Ng được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:88/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về