Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn và nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG - TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 88/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 254/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2019, về việc “Ly hôn và nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 745/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Lê Thị Tuyết D, sinh năm 1985; địa chỉ ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (có mặt)

* Bị đơn: Nguyễn Văn P, sinh năm 1984; địa chỉ khóm N, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/6/2019 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Lê Thị Tuyết D trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn P sau khi tìm hiểu một thời gian rồi đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 17/12/2009 tại Ủy ban nhân dân Phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Sau khi cưới nhau vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng đến đầu năm 2013 sau khi sinh con thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, đặc biệt là áp lực từ gia đình chồng nên chị đã về sống với cha mẹ ruột và vợ chồng đã ly thân khoảng 02 năm nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh P. Về con chung, có 01 con chung tên Nguyễn Lê P Nguyên, sinh ngày 11/02/2013. Chị D yêu cầu được nuôi cháu Nguyên và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ. Về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Nguyễn Văn P được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử, nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt và cũng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Qui trình nhận đơn, thu thập chứng cứ của Thẩm phán đúng trình tự thủ tục tố tụng; về thời hạn xét xử đảm bảo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; về Hội đồng xét xử thực hiện nguyên tắc xét xử đúng trình tự thủ tục tố tụng; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn được thực hiện nghiêm túc.

Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116, Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Cho chị D được ly hôn với anh P. Giao con chung Nguyễn Lê P Nguyên, sinh ngày 11/02/2013 cho chị D nuôi dưỡng; anh P phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ. Chị D và anh P mỗi người phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị D khởi kiện anh P có địa chỉ tại thành phố Vĩnh Long để yêu cầu xin ly hôn và nuôi con; cho nên, đây là vụ án dân sự tranh chấp về hôn nhân và gia đình “Ly hôn và nuôi con” theo quy định tại Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn Nguyễn Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham dự phiên tòa lần thứ hai nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt; cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Tuyết D, Hội đồng xét xử thấy: Chị D và anh P chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long ngày 17/12/2009, nên được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quá trình chung sống, thời gian đầu rất hạnh phúc, nhưng đến đầu năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng đã ly thân trên 02 năm nay. Riêng anh P đã biết chị D xin ly hôn nhưng anh không có ý kiến phản đối, không đến tham gia phiên hòa giải, xét xử, cũng không quan tâm và bỏ mặt cho chị D tự giải quyết. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị D và anh P mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; do đó, chị D yêu cầu được ly hôn với anh P là có cơ sở chấp nhận phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về quan hệ con chung: Chị D và anh P có 01 con chung tên Nguyễn Lê Phước N, sinh ngày 11/02/2013, chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, nhưng anh P không có ý kiến phản đối. Chị D là giáo viên, có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng trên 5.000.000đ; xét thấy việc giao con cho chị D nuôi dưỡng sẽ đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị D, Hội đồng xét xử thấy: Cháu N đang ở độ tuổi đi học, trưởng thành và phát triển, mọi nhu cầu sinh hoạt, học tập đều tăng, mặt khác, giá cả thị trường cũng luôn biến động theo chiều hướng tăng, cho nên, chị D rất cần các phí tổn để nuôi dưỡng. Theo xác nhận của Công ty TNHH T ngày 10/8/2019 thì mức thu nhập bình quân hàng tháng của anh P trên 7.000.000đ. Do đó, chị D yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Tuyết D không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Lê Thị Tuyết D chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn và anh Nguyễn Văn P chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 5 và khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Tuyết D. Chị D được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Lê Phước N, sinh ngày 11/02/2013 cho chị D nuôi dưỡng. Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Buộc anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu N mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Bắt đầu thực hiện từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Vì lợi ích của con trẻ khi cần thiết có thể thay đổi quyền nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng cho con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Buộc chị Lê Thị Tuyết D và anh Nguyễn Văn P mỗi người nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng chị D được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004646, ngày 26/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long, nên chị D không phải nộp thêm.

5. Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị D biết, được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh P có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn và nuôi con

Số hiệu:88/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về