Bản án 88/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 88/2018/HS-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2018/TLST- HS, ngày 12 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Hứa Văn K, sinh ngày 02/02/1966; tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Viết L và bà Hoàng Thị S (đã chết); vợ: Hoàng Thị L; con: Có 04 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/10/1994, Hứa Văn K bị Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 28/6/1996 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 năm tù giam về tội: Cướp tài sản của công dân” (đã được xóa án tích); bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc từ ngày 15/9/2018 đến nay; có mặt.

Người chứng kiến: Anh Phạm Trọng N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/9/2018 tại đường M, thuộc Khu K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tổ kiểm soát Bộ đội Biên phòng Cửa Khẩu Quốc tế Hữu Nghị phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa Khẩu Quốc tế Hữu Nghị tỉnh Lạng Sơn phát hiện (06 đối tượng, 04 nam, 02 nữ) mỗi đối tượng vác 01 vác hàng, đang đi từ Trung Quốc vào Việt Nam. Tổ công tác tiến hành truy đuổi và bắt được Hứa Văn K đang vác 01 vác hàng gồm 02 bao dứa màu xanh, bên trong là 02 thùng các tông (01 thùng có 18 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn và 01 thùng có 06 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn). Tiếp tục kiểm tra số hàng của các đối tượng bỏ chạy đều là pháo gồm: 16 thùng hàng cát tông trong đó 144 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn; 12 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn; 35 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 39 cm; 12 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 31 cm; 18 báo tải dứa màu xanh dùng để đựng pháo, 03 sợi dây thừng may kết hợp và bao tải dứa dùng để gùi hàng.

Tại biên bản xác định chủng loại và trọng lượng pháo ngày 14/9/2018 gồm 18 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn và 01 thùng có 06 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn. Tổng trọng lượng 53kg pháo thành phẩm.

Đối với số pháo thu giữ của các đối tượng bỏ chạy xác định gồm có: 16 thùng hàng cát tông trong đó 144 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn; 12 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn; 35 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 39 cm; 12 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 31 cm. Tổng trọng lượng là 330kg pháo thành phẩm.

Xét thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết Bộ đội Biên phòng Cửa Khẩu Quốc tế Hữu Nghị phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa Khẩu Quốc tế Hữu Nghị tỉnh Lạng Sơn đã niêm phong vật chứng và chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng và người bị bắt cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 17/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có Quyết định trưng cầu giám định đối với số pháo trên. Tại Kết luận giám định số 05/KL- PC09 ngày 17/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các mẫu vật gửi tới giám định đều chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra tiếng nổ.

Tại cơ quan điều tra, Hứa Văn K khai nhận: Khoảng 19h ngày 14/9/2018 K từ nhà ra đến khu vực 06 N, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn với mục đích vác hàng thuê. Khoảng 21h K gặp một người tên L không rõ họ, khoảng 26 tuổi trú tại thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn đặt vấn đề thuê K vác hàng từ Trung Quốc về Việt Nam, với giá 150.000đ/01 vác, K đồng ý. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày K cùng đi 05 người (04 nam, 01 nữ) theo đường mòn B, thuộc khu vực thôn K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn đến khu vực đối diện mốc số 11xx biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đến đoạn cách biên giới Việt Nam khoảng 20 phút thì đến điểm tập kết pháo. K đã lấy 02 thùng pháo buộc vào gùi rồi vận chuyển về Việt Nam, đi được khoảng 300m thì mệt nên K nghỉ và để bao hàng lên một mỏm đá làm bao dứa bị rách. Do tò mò K cho tay vào kiểm tra nên biết đó là 02 thùng pháo là hàng cấm nhưng ham lợi vì tiền công vận chuyển cao nên K vẫn tiếp tục vận chuyển pháo về Việt Nam. Khi vế đến khu vực B thuộc khu vực K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng tuần tra phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Lời khai của bị cáo Hứa Văn K phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xác định trọng lượng; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ trong vụ án xác định được như sau: 18 (mười tám) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn và 06 giàn pháo loại 100 lỗ/ giàn, tổng trọng lượng 53kg pháo thành phẩm là của Hứa Văn K; 144 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn; 12 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn; 35 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 39 cm; 12 bánh pháo loại pháo quả dài, tròn kết thành dây đóng thành hình tròn đường kính 31 là của 05 đối tượng đã bỏ chạy, có tổng trọng lượng là 330kg pháo thành phẩm.

Ngày 23/10/2018 tại biên bản xác định hiện trường, đã xác định Hứa Văn K vận chuyển pháo từ biên giới Trung Quốc vào Việt Nam qua đường mòn B thuộc khu vực K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.

Đối với người đàn ông tên L đã thuê K vận chuyển pháo, do K không biết họ và địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc không đủ cơ sở để điều tra xử lý trong vụ án này.

Đối với 05 đối tượng đi vác hàng cùng Hứa Văn K do K không biết họ, tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Tại bản cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc đã truy tố bị cáo Hứa Văn K về Tội vận chuyển hàng cấm theo điểm g, điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g, điểm k khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự - Tuyên bố bị cáo Hứa Văn K phạm Tội vận chuyển hàng cấm và xử phạt bị cáo Hứa Văn K từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng vì bị cáo Hứa Văn K điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xác nhận đã tiêu hủy toàn bộ số lượng pháo đã thu 53 kg pháo nổ do Hứa Văn K vận chuyển và 330 kg pháo nổ của 05 đối tượng chưa xác định được vận chuyển (theo Quyết định xử lý vật chứng số 60 và biên bản tiêu hủy ngày 30/10/2018).

Bị cáo Hứa Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi của bản thân và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/9/2018 tại đường mòn biên giới thuộc khu vực K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị phối hợp với Chi cục Hải quan cửa khẩu Hữu Nghị tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang Hứa Văn K đã có hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo) từ biên giới Trung Quốc vào Việt Nam qua đường mòn B thuộc khu vực K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn với số lượng là 18 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn và 06 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn. Tại Kết luận giám định số 05/KL-PC09 ngày 17/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các mẫu vật gửi tới giám định đều chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra tiếng nổ. Tổng trọng lượng là 53kg pháo thành phẩm.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt quả tang, biên bản xác định trọng lượng và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Hứa Văn K đã có hành vi vận chuyển 18 giàn pháo loại 36 lỗ/1giàn và 06 giàn pháo loại 100 lỗ/1giàn, có trọng lượng là 53kg từ biên giới Trung Quốc vào Việt Nam là vi phạm pháp luật. Hành vi này của bị cáo Hứa Văn K đã phạm vào Tội vận chuyển hàng cấm, quy định tại điểm g, điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Hứa Văn K thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do vậy bị cáo có đủ khả năng để nhận thức việc vận chuyển hàng cấm là trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý một số hàng hóa của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự quản lý kinh tế và an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc theo tội danh và điều khoản trong Bộ luật Hình sự như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Nhưng bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính và năm 1996 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử 05 năm tù về Tội cướp tài sản của công dân. Nên xác định nhân thân không tốt.

[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[8] Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và bản kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Hứa Văn K điều kiện kinh tế khó khăn, nghề nghiệp lao động tự do chủ yếu là đi vác hàng thuê, công việc không ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[11] Đối với người đàn ông tên L đã thuê bị cáo Hứa Văn K vận chuyển pháo, do Hứa Văn K không biết họ và địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc không đủ cơ sở để điều tra xử lý trong vụ án này. Còn 05 đối tượng đi vác hàng cùng Hứa Văn K do K không biết họ, tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cũng không có cơ sở để xác minh làm rõ là có căn cứ.

[12] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xác nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã tiêu hủy toàn bộ số lượng pháo đã thu 53kg pháo nổ do Hứa Văn K vận chuyển và 330kg pháo nổ của 05 đối tượng chưa xác định được vận chuyển (theo Quyết định xử lý vật chứng số 60 và biên bản tiêu hủy ngày 30/10/2018).

[13] Về án phí: Bị cáo Hứa Văn K bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g, điểm k khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hứa Văn K phạm Tội vận chuyển hàng cấm.

2. Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hứa Văn K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam giữ 15/9/2018.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Xác nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã tiêu hủy toàn bộ số lượng pháo đã thu 53kg pháo nổ do bị cáo Hứa Văn K vận chuyển và 330kg pháo nổ của 05 đối tượng chưa xác định được vận chuyển (theo Quyết định xử lý vật chứng số 60 và biên bản tiêu hủy ngày 30/10/2018).

4. Về án phí: Bị cáo Hứa Văn K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

366
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:88/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về