Bản án 88/2018/DS-ST ngày 20/04/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi, vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 88/2018/DS-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI, VAY TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 72/2018/TLST-DS ngày 05/01/2018 về tranh chấp“Hợp đồng góp hụi, vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 604/2018/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 3 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 46/2018/QĐST-DS ngày 05/4/2018; Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số: 824/2018/QĐ-CA giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị B, sinh năm 1969. (Có mặt)

Nơi cư trú: Số 48/2, ấp AĐ, xã AĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Lê Thị M, sinh năm 1962. (Có mặt)

Lê Văn Đ, sinh năm 1962. (Vắng mặt)

Cùng nơi cư trú: Số 128/1, ấp GH, xã AĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 27/11/2017, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn Nguyễn Thị B trình bày:

- Vào ngày 12 tháng 10 năm 2015 bà Lê Thị M cùng chồng là ông Lê Văn Đ có nợ của bà số tiền hụi là 41.000.000 và hứa hàng tháng trả 3.000.000 đồng nhưng không trả đến nay. Có viết biên nhận.

- Vào ngày 16 tháng 4 năm 2016  bà Lê Thị M cùng chồng là ông Lê Văn Đ có nợ của bà số tiền vay là 39.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 5%/ tháng và bà M, ông Đ có trả lãi cho bà được số tiền là 7.000.000 đồng. Số tiền gốc còn lại và tiền lãi đến nay không trả. Có viết biên nhận.

Do bà M và ông Đ không thực hiện trả tiền cho bà như đã hứa nên bà làm đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc phải trả vốn và lãi chậm trả cho bà.

Tại phiên tòa bà yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà các khoản tiền vốn và lãi với số tiền là: 87.976.000 (Tám mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng. Trong đó cụ thể tính như sau:

- Số tiền vốn hụi là 41.000.000 (Bốn mươi mốt triệu) đồng, bà không yêu cầu tính lãi.

- Số tiền vốn 39.000.000 (Ba mươi chín triệu) đồng, tính lãi từ ngày 16 tháng 4 năm 2016 đến ngày 16 tháng 4 năm 2018 là 24 tháng (từ ngày 17/4/2018 đến nay 20/4/2018 không tính lãi), mức lãi 1,6%/tháng. Với số tiền lãi là: 14.796.000 đồng và bà đồng ý khấu trừ số tiền mà bà M, ông Đ đã trả cho bà là 7.000.000 đồng.

Chứng cứ bà cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của bà là 01 Bản chính biên nhận nợ có chữ ký của bà Lê Thị M. Ngoài ra bà không cung cấp chứng cứ gì thêm.

Tại phiên tòa bị đơn bà Lê Thị M có mặt nhưng bị đơn ông Lê Văn Đ vắng mặt nhưng tại bản tự khai của bà M ngày 05/01/2018 và trong quá trình tố tụng bà M trình bày:

Bà thừa nhận phần nợ gốc hụi là 41.000.000 (Bốn mươi mốt triệu) đồng, bà và ông Đ có nợ bà Nguyễn Thị B, có ký vào biên nhận nợ nhưng số tiền này bà đã trả xong cho bà B, khi trả không có làm giấy tờ.

Còn phần 39.000.000 (Ba mươi chín triệu) đồng, bà thừa nhận có ký xác nhận nợ với bà B vào ngày 16 tháng 4 năm 2016, nhưng bà đã trả được 7.000.000 (Bảy triệu) đồng nên chỉ còn nợ bà B số tiền 32.000.000 (Ba mươi hai triệu) đồng. Bà và ông Đ yêu cầu được trả dần hàng tháng 1.000.000đồng, cho đến khi dứt nợ.

Còn việc bà B yêu cầu tính mức lãi suất 1,6%/tháng là hợp lý đúng quy định của pháp luật nhưng bà và ông Lê Văn Đ xin không trả lãi do hoàn cảnh đang gặp khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Nguyễn Thị B tranh chấp hợp đồng góp hụi, vay tài sản với bị đơn bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P.

[2] Về thủ tục tố tụng: ông Lê Văn Đ đã được Tòa án nhân dân huyện P triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ là đúng theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Hợp đồng góp hụi, vay tài sản giữa nguyên đơn Nguyễn Thị B với bị đơn bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không bên nào bị lừa dối hoặc bị ép buộc; cả hai đều có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên xem là hợp đồng hợp pháp theo quy định tại Điều 463, 468, 471 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Qua tố tụng tại Tòa án bị đơn bà Lê Thị M thừa nhận bà và ông Lê Văn Đ có nợ bà B số tiền góp hụi là 41.000.000 (Bốn mươi mốt triệu) đồng nhưng bà M cho rằng bà đã trả xong cho bà B số tiền này nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên cần buộc bà M, ông Đ có nghĩa vụ trả cho bà B số tiền 41.000.000 đồng (bà B không yêu cầu không tính lãi) là có căn cứ theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015.

Còn khoản tiền vay tại biên nhận ngày 16/4/2016 với số nợ là 39.000.000 (Ba mươi chín triệu) đồng, tại phiên tòa bà B và bà M thống nhất là bà M, ông Đ đã trả được số tiền là 7.000.000 (Bảy triệu) đồng và bà B đồng ý khấu trừ số tiền này vào số tiền lãi mà bà B yêu cầu 14.976.000 đồng nên số tiền lãi bà M, ông Đ phải trả cho bà B là 7.976.000 đồng (Bảy triệu, chín trăm bảy sáu nghìn) đồng.

Như vậy tổng cộng số tiền bà B yêu cầu bà M và ông Đ có nghĩa vụ liên đới trả là 87.976.000 đồng (Tám mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa bà M yêu cầu xin được trả dần hàng tháng là 1.000.000 đồng, nhưng bà B không đồng ý yêu cầu xin trả dần của bà M nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những phân tích trên yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B với tổng cộng số tiền là 87.976.000 đồng là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468, 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà B số tiền gốc và tiền lãi là 87.976.000 (Tám mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị B được Tòa án chấp nhận nên bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ phải có nghĩa vụ liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Số tiền án phí bà M, ông Đ phải liên đới nộp (87.976.000 đồng x 5%) là: 4.398.800 đồng.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, các Điều 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 463, 466, 468, 471 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B. Buộc bà Lê Thị M và ông Lê Văn Đ phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị B số tiền 87.976.000 (Tám mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng.

Kể từ ngày Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Lê Thị M, ông Lê Văn Đ có nghĩa vụ liên đới nộp: 4.398.800 (Bốn triệu, ba trăm chín mươi tám nghìn, tám trăm) đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bến Tre.

Bà Nguyễn Thị B được Chi cục thi hành án dân sự huyện P hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.301.600 (Hai triệu, ba trăm lẻ một nghìn, sáu trăm) đồng theo biên lai thu số 0014218, ngày 03 tháng 01 năm 2018.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án, đối với các đương sự vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

498
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2018/DS-ST ngày 20/04/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi, vay tài sản

Số hiệu:88/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về