TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 88/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 14/8/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 87/2017/HSST ngày 21/7/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: P (N), sinh năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã T, huyện H, tỉnh Long An;
Chỗ ở hiện nay: Ấp V, xã T, huyện H, tỉnh Long An;
Nghề nghiệp: Không;
Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Con ông Nguyễn H và bà T; Bản thân chưa có vợ, con;
Tiền sự: Có 01 tiền sự, tại quyết định xử phạt hành chính số 02/QĐ-XPHC ngày 04/01/2016 của Công an xã T, huyện H, tỉnh Long An xử phạt bị cáo P số tiền 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Đến nay, bị cáo chưa chấp hành xong quyết định;
Tiền án: Không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2016 cho đến nay, bị cáo có mặt;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1987
Trú tại: Xóm I, xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình;
Chỗ ở hiện nay: Tổ Q, khu phố L, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương, có đơn xin vắng mặt;
NHẬN THẤY
Bị cáo P (N) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Long An truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào lúc 16 giờ 00 phút ngày 09/6/2017, Công an huyện H, tỉnh Long An lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối bị cáo P (N) khi đang thực hiện hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tang vật thu giữ gồm: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258; 01 bình xịt hơi cay, 01 ĐTDĐ Nokia loại 1202, màu xanh, số sim 0976350006; 01 ĐTDĐ OPPO F1S màu vàng hồng, tình trạng không còn hoạt động; 05 chìa khóa xe môtô màu đen bị mài nhọn đầu; tiền Việt Nam 370.000đ.
Qua điều tra bị cáo P (N) khai nhận: Bị cáo P (N) có quan hệ quen biết với một người tên T không rõ nhân thân, lai lịch. Quá trình quen biết, T thuê bị cáo chở đối tượng tên Y không rõ nhân thân lai lịch đến khu vực cầu vượt S thuộc thị xã A, tỉnh Bình Dương để Y nhận xe môtô do người khác phạm tội mà có điều khiển về huyện H, tỉnh Long An giao lại cho Y để Y giao lại cho T, mỗi chiếc T trả tiền công cho bị cáo số tiền 300.000đ và bị cáo P đã vận chuyển trót lọt 03 chuyến nhận tiền công 900.000đ. Vào ngày 02/6/2017, bị cáo P đến gặp trực tiếp đối tượng T để xin trực tiếp đi không thông qua đối tượng tên Y nữa thì được T đồng ý và thỏa thuận tiền công mỗi chiếc là 500.000đ. Khoảng 05 giờ ngày 03/6/2017, T kêu người đàn ông tên D không rõ nhân thân lai lịch đến chở bị cáo xuống khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương nhận 01 xe môtô nhãn hiệu Wave màu đỏ không biển số do người khác phạm tội mà có đem về huyện H, tỉnh Long An giao cho D và nhận tiền công 500.000đ tiêu xài cá nhân hết. Khoảng 06 giờ ngày 09/6/2017, bị cáo đang ở nhà tại thị trấn Đ, huyện H, tỉnh Long An thì D điều khiển xe môtô không nhớ biển kiểm soát đến tiếp tục chở bị cáo xuống khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương nhận 01 xe môtô nhãn hiệu Vision biển kiểm soát 35B1-630.48 để chạy về H giao lại cho T nhận tiền công. Khi nhận xe, bị cáo kiểm tra xe phát hiện ổ khóa công tắc bị cạy, biết rõ xe này do người khác trộm cắp mà có nhưng do bị cáo đã có thỏa thuận trước với T nên bị cáo vẫn đồng ý nhận xe rồi điều khiển về đến khu vực ấp Đ, thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An thì bị Công an huyện H kiểm tra bắt quả tang.
Qua điều tra xác định xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258 là của anh Nguyễn Mạnh H, anh H bị mất xe vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 08/6/2017 tại nhà tổ Q, khu phố L, phường H, thị trấn A, tỉnh Bình Dương.
Ngày 07/6/2017, Hội đồng định giá huyện H, tỉnh Long An xác định 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258 có giá trị là 17.994.000đồng.
Ngày 14/6/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện H, tỉnh Long An đã xem xét trả lạị tài sản là nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Mạnh H xong và anh H không yêu cầu gì về phần trách nhiệm dân sự.
Tại bản cáo trạng số 90/QĐ-KSĐT ngày 21 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Long An truy tố bị cáo P (N) về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 BLHS.
Tại phiên Tòa, Kiểm sát viên sau khi phân tích, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo P (N) gây ra; Đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo P (N) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Áp dụng khoản 1 Điều 250 BLHS, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS xử phạt bị cáo P (N) mức án từ 09 đến 12 tháng tù
Áp dụng Điều 41, Điều 42 BLHS, Điều 76 BLTTHS:
Về trách nhiệm dân sự:
Anh Nguyễn Mạnh H sau khi nhận lại tài sản xong không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xem xét.
Buộc bị cáo P (N) nộp lại số tiền 1.400.000đ thu lợi bất chính sung vào công quỹ Nhà nước.
Về tang vật chứng:
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 1202, màu xanh.
Tịch thu tiêu hủy: Số sim 0976350006; 05 chìa khóa xe môtô màu đen bị mài nhọn đầu; 01 bình xịt hơi cay.
Tiếp tục tạm giữ số tiền Việt Nam 370.000đ của bị cáo để đảm bảo cho công tác thi hành án.
Trả lại cho bị cáo P (N) 01 ĐTDĐ OPPO F1S màu vàng hồng, tình trạng không còn hoạt động;
Đối với đối tượng tên T; Y; D và 02 người đàn ông giao xe cho bị cáo tại khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương là người có hành vi thuê bị cáo P (N) chạy xe từ khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương về huyện H, tỉnh Long An tiêu thụ. Cơ quan CSĐT Công an huyện H, tỉnh Long An không xác định được nhận thân, lai lịch nên không khởi tố xử lý trong vụ án này. Do đó, không đề cập xem xét.
Bị cáo hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng của VKSND huyện H, tỉnh Long An truy tố, không đưa ra chứng cứ nào để minh oan, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên Toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo P (N) thừa nhận hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như bản cáo trạng đã nêu, cụ thể: Vào khoảng 16 giờ ngày 09/6/2017, bị cáo P (N) biết rõ xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLJF3311DY425194, số máy JF33E0505258 là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng đã đồng ý vận chuyển từ từ khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương về huyện H, tỉnh Long An để giao cho người khác tiêu thụ nhằm mục đích hưởng tiền công 500.000đ. Khi bị cáo P (N) vận chuyển xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258 đến ấp Đ, thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An thì bị bắt giữ. Tài sản mà bị cáo H vận chuyển để tiêu thụ có giá trị là 17.994.000đ. Ngoài ra, bị cáo P (N) khai nhận ngoài lần bị bắt quả tang ra thì bị cáo đã cùng với đối tượng tên Y – không rõ nhân thân lai lịch vận chuyển cho đối tượng tên T trót lọt 03 lần được 03 xe thu lợi bất chính số tiền 900.000đ và cùng với đối tượng tên D – không rõ nhân thân lai lịch vận chuyển cho đối tượng tên T trót lọt 01 lần được 01 xe thu lợi bất chính số tiền 500.000đ tiêu xài cá nhân hết.
Lời nhận tội của bị cáo P (N) phù hợp khách quan với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 09/6/2017, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xác minh công khai tại phiên tòa và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo P (N) đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo P (N) với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo P (N) gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm phạm đến khách thể là trật tự công cộng, công tác bảo vệ pháp luật và phòng chống tội phạm của Nhà nước; là tiếp tay cho hoạt động tội phạm. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp pháp luật thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi trái pháp luật của bị cáo P (N) cần xử lý nghiêm theo pháp luật Hình sự, cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục - răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu vì có 01 tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” đến nay bị cáo chưa thi hành xong quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS nên khi áp dụng hình phạt có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần. Xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo P (N) là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Đối với đối tượng tên T; Y; D và 02 người đàn ông giao xe cho bị cáo tại khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương là người có hành vi thuê bị cáo P (N) và cùng bị cáo chạy xe từ khu vực cầu vượt S thuộc thị trấn A, tỉnh Bình Dương về huyện H, tỉnh Long
An tiêu thụ. Cơ quan CSĐT Công an huyện H, tỉnh Long An không xác định được nhận thân, lai lịch nên không khởi tố xử lý trong vụ án này. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Mạnh H sau khi nhận lại tài sản xong không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
Buộc bị cáo P (N) nộp lại số tiền 1.400.000đ thu lợi bất chính sung vào công quỹ Nhà nước.
Về tang vật chứng:
Cơ quan CSĐT công an huyện H, tỉnh Long An đã xem xét trả lại xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ, biển kiểm soát 35B1-630.48, số khung RLHJF3313DY425194, số máy JF33E0505258 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Mạnh H xong nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
Đối với 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 1202, màu xanh. Xét đây là công cụ bị cáo H sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Đối với số sim 0976350006 là công cụ bị cáo P sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 05 chìa khóa xe môtô màu đen bị mài nhọn đầu; 01 bình xịt hơi cay là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 ĐTDĐ OPPO F1S màu vàng hồng, tình trạng không còn hoạt động. Xét đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Đối với số tiền Việt Nam 370.000đ. Xét đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Bị cáo phải chịu án phí HSST.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo P (N) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”
Áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS.
Xử phạt bị cáo P (N) 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2017.
Áp dụng Điều 228 BLTTHS: Tiếp tục tạm giam bị cáo P (N) 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/8/2017) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Áp dụng Điều 41, Điều 42 BLHS và Điều 76 BLTTHS
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo P (N) nộp lại số tiền 1.400.000đ thu lợi bất chính sung vào công quỹ Nhà nước.
Về tang vật chứng:
Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 1202, màu xanh
Tịch thu tiêu hủy số sim 0976350006; 05 chìa khóa xe môtô màu đen bị mài nhọn đầu; 01 bình xịt hơi cay.
Tiếp tục tạm giữ số tiền Việt Nam 370.000đ của bị cáo để đảm bảo cho công tác thi hành án.
Trả lại cho bị cáo P (N) 01 ĐTDĐ OPPO F1S màu vàng hồng, tình trạng không còn hoạt động;
Tiền và tang vật trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Long An đang quản lý theo biên lai thu số 02772 và biên bản giao nhận cùng ngày 18/7/2017
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 24 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo P (N) nộp 200.000đồng án phí HSST sung vào công quỹ Nhà nước.
Án này là sơ thẩm bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án 88/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 88/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về