TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 87/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 87/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
+ Đỗ Đăng T - sinh năm 1998; nơi cư tru: thôn N, xã LS, huyên TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giam, tạm giữ: không. Bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
- Bị hại: bà Trần Thị Tuyết Nh - sinh năm 1975; người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Thanh T3 - sinh năm 1977; cùng nơi cư trú: thôn BL, xã TP, huyện TL, tỉnh Hà Nam; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Trần Thanh T3 - sinh năm 1977; nơi cư trú: thôn BL, xã TP, huyện TL, tỉnh Hà Nam; có mặt.
2. Ông Đỗ Văn T1 - sinh năm 1975; nơi cư trú: thôn N, xã LS, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Đinh Thị N - sinh năm 1975; vắng mặt.
2. Anh Hoàng Tuấn A - sinh năm 1988; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đỗ Đăng T có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hà Nam cấp ngày 28/6/2019, cấp đổi ngày 11/8/2020, có giá trị: không thời hạn. Khoảng 06 giờ 45 phút ngày 18/6/2020, T điều khiển xe mô tô BKS 90B1- 80... đi theo Quốc lộ 1A hướng Ninh Bình - Phủ Lý. Khi đi đến Km 238+870 thuộc địa phận thôn Phúc Nhị, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, T điều khiển xe mô tô đi ở làn đường sát với giải phân cách cứng giữa đường. Lúc này, phía trước có xe mô tô BKS 90H1-4... do bà Trần Thị Tuyết Nh điều khiển đang dừng, đỗ ở khoảng trống dải phân cách cứng giữa đường. Bà Nh đang dừng xe, chống chân trái xuống mặt đường để chờ chuyển hướng sang chiều đường hướng Phủ Lý - Ninh Bình. Do T không chú ý quan sát, không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong trường hợp có biển cảnh báo nguy hiểm, dẫn đến phần bánh lốp trước và ốp nhựa đầu xe mô tô BKS 90B1-80... do T điều khiển xô vào mặt ngoài má lốp bên trái bánh lốp trước xe mô tô BKS 90H1-4... do bà Trần Thị Tuyết Nh điều khiển, làm hai xe đổ rê trượt trên đường. Hậu quả: bà Trần Thị Tuyết Nh bị thương, được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam và Bệnh viện Việt Đức - Hà Nội; Đỗ Đăng T bị thương, được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam; xe mô tô BKS 90H1-4... và xe mô tô BKS 90B1-80... bị hư hỏng. Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT-Công an huyện Thanh Liêm đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám phương tiện liên quan.
* Kết quả khám nghiệm hiện trường:
- Vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Km 238+870 Quốc lộ 1A, phần đường hướng Ninh Bình - Phủ Lý rộng 9m15 gồm 03 làn đường: 01 làn đường dành cho xe thô sơ rộng 1m50; 02 làn đường dành cho xe cơ giới, làn đường sát giải phân cách rộng 3m95, làn đường giữa rộng 3m40; trong phạm vi báo hiệu bao gồm: 01 cụm gờ giảm tốc 7 vạch liền sơn trắng; 01 cụm gờ giảm tốc 5 vạch liền sơn trắng; 01 biển báo hiệu I423 (vị trí người đi bộ sang ngang); 01 biển báo I409 (chỗ quay xe); 01 biển cảnh báo và nguy hiểm (giao nhau với đường không ưu tiên bên trái); 01 biển cảnh báo và nguy hiểm (đường người đi bộ cắt ngang) và 01 biển cảnh báo và nguy hiểm (trẻ em).
- Chọn chân dải phân cách chiều đường Ninh Bình - Phủ Lý làm mép đường chuẩn, các kích thước đo vào mép đường chuẩn gọi là đo vào mép đường. Chọn mép bên trái nhà văn phòng phẩm Hồng Thắm nằm bên phải đường hướng Ninh Bình - Phủ Lý theo hướng nhìn từ phía trong nhà ra đường làm điểm mốc.
- (1) Xe mô tô BKS 90H1-4... sau tai nạn đổ nghiêng bên phải trên mặt đường, trục trước và trục sau đo vào mép đường lần lượt là 0m85 và 2m05. (2) vết cày kích thước (2m10 x 0m01), điểm đầu cách mép đường 1m65, điểm cuối vết tương ứng tại vị trí ghi đông bên phải xe (1) tiếp xúc mặt đường, đầu vết (2) thẳng và cách điểm mốc 7m50. (3) Vết cày kích thước (0m80 x 0m01), điểm đầu vết và cuối vết đo vào đường đều là 1m75, điểm cuối cách đầu vết (2) là 5m70. (4) Tổ hợp vết cày, trượt sạt kích thước (9m90 x 0m25), điểm gần nhất đầu vết cách mép đường 1m45, cách đầu vết (3) 1m 80, đầu đoạn đứt dải phân cách về phía Phủ Lý là 2m35, cuối vết tương ứng tại vị trí giá để chân trước bên phải và cần phanh chân xe (1) tiếp giáp mặt đường. (5) Xe mô tô BKS 90B1- 80... sau tại nạn đổ nghiêng bên phải trên mặt đường, đầu xe chếch vào mép đường chuẩn, đuôi xe quay hướng Phủ Lý, phần đuôi xe nằm đè lên phía trên phần sườn xe (1), trục bánh trước và trục bánh sau đo vào mép đường là 1m00 và 1m50. (6) Tổ hợp vết cày kích thước (3m65 x 0m15), điểm gần nhất đầu vết đo vào mép đường là 0m80, điểm gần nhất cuối vết đo vào mép đường là 0m40m, cuối vết thẳng với trục bánh trước xe (5). (7) Vết trượt kích thước (1m60 x 0m25), vết trượt trên bề mặt dải phân cách in hằn vân lốp, đầu vết và cuối vết cách mặt đường 0m10, điểm cuối vết đo vuông góc với đầu vết (6) là 0m15. (8) Vết cày kích thước (0m65 x 0m03), điểm đầu vết đo vào mép đường là 0m45, điểm cuối vết đo vào mép đường là 0m20, đo vào đầu vết (7) là 0m35 theo đường thẳng. (9) Vết máu kích thước (0m25 x 0m20), tâm vết đo vào mép đường là 1m30, đo vào trục bánh trước xe (1) là 2m00. (10) Vết máu kích thước (0m50 x 0m30), tâm vết đo vào mép đường là 0m25, đo đến tâm vết máu (9) là 1m20. Khoảng cách giữa trục bánh sau xe (1) và trục bánh sau xe (5) là 0m50.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện:
- Kết quả khám xe mô tô BKS 90H1-4...: mặt ngoài má lốp bên trái bánh lốp trước có vết trượt chùi bụi trên diện (18 x 3,5) cm, điểm gần nhất cách chân van theo đường thẳng thuận chiều kim đồng hồ là 22,5cm, hướng từ tâm ra ngoài, bề mặt vết bám dính vật chất màu đỏ dạng sơn. Ốp nhựa đầu xe bị đẩy từ trái sang phải làm rách vỡ nhựa, cụm đèn chiếu sáng, đèn xi nhan bên trái, bên phải phía trước bị vỡ bật rời khỏi xe, cần gương chiếu hậu bên trái bị đẩy từ trái qua phải gáo gương bật rời. Cánh yếm bên trái bị vỡ nát toàn bộ. Đầu bò phía trước lốc máy (bộ chế hòa khí, làm mát, lọc nhiên liệu) bị đẩy dồn từ trước về sau, từ trái qua phải xô lệch so với ban đầu, rách vỡ nhựa, bề mặt ngoài bám dính vật chất màu đỏ dạng sơn, khung xe tại vị trí trên lọc gió bị đẩy cong hướng từ trái qua phải. Đầu tay nắm ghi đông bên phải bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (2 x 1)cm, đầu tay phanh bên phải bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (1 x 1)cm, bề mặt bám dính hỗn hợp bột đá bê tông. Mặt ngoài phía trước của cụm dầu thủy lực phanh trước bên phải bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (1,5 x 1)cm, bề mặt bám dính hỗn hợp bột vữa bê tông. Cạnh ngoài bàn phanh chân bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (3,5 x 0,7)cm, bề mặt bám dính hỗn hợp bột đất đá. Giá để chân trước bên phải có xu hướng bị đẩy từ trước về sau, đầu lõi kim loại bị mài sạt sáng trên diện (1 x 1)cm, bề mặt bám dính hỗn hợp bột đất đá. Hệ thống phanh, đèn báo hãm, đèn xi nhan sau bên trái và bên phải có tác dụng. Hệ thống lái, đèn chiếu sáng, đèn xi nhan trước bên trái và bên phải, gương chiếu hậu bên trái và bên phải không tác dụng.
- Kết quả khám xe mô tô BKS 90B1-80...: bánh lốp trước bị đẩy từ trước về sau, từ phải qua trái, càng xe bị cong bẹp, vành xe bị đẩy cong hướng từ ngoài vào tâm ngay tại vị trí chân van làm chùn đứt nan hoa, bánh lốp trước không còn hơi, chắn bùn bánh lốp này bị vỡ nát. Ốp nhựa đầu xe bị đẩy từ trước về sau làm bẹp, rách vỡ nhựa. Mặt nạ xe bị vỡ nát bật rời khỏi xe. Đèn xi nhan bên trái, bên phải phía trước bị vỡ nát, bật rời khỏi xe. Mặt ngoài phía trước cần phanh tay bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (3,5 x 1)cm, bề mặt bám vật chất màu trắng dạng bột đất đá. Đầu tay nắm ghi đông bên phải bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (2 x 1)cm. Cánh yếm bên trái và bên phải bị đẩy dồn từ trước về sau làm rách vỡ nhựa, lót cánh yếm bị rách vỡ nhựa. Mặt ngoài của đầu ốc của càng trước bên phải bị mài sạt mòn sáng kim loại trên diện (4 x 2)cm, bề mặt bám dính hốn hợp bột đất đá. Giá để chân trước bên phải bọc cao su bị choét rách để lộ đầu lõi kim loại bị mài sạt sáng trên diện (1 x 1)cm. Hệ thống phanh, đèn báo hãm, xi nhan sau bên trái và bên phải có tác dụng. Hệ thống lái, đèn chiếu sáng, xi nhan trước bên trái và bên phải không có tác dụng. Gương chiếu hậu bên trái và bên phải không có.
* Kết quả xét nghiệm cồn trong máu của Đỗ Đăng T và bà Trần Thị Tuyết Nh: đều là 0,000mg/L.
Ngày 11/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm ra quyết định trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Nam tiến hành giám định mức độ tổn hại sức khỏe của bà Trần Thị Tuyết Nh do tai nạn giao thông gây ra.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 85/20/TgT ngày 31/8/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định: 01 sẹo lớn (đùi trái), 07 sẹo trung bình (mặt, cẳng tay trái, gối và cẳng chân phải, cẳng và gót chân trái) không ảnh hưởng chức năng. Chảy máu dưới nhện, sau điều trị không còn hình ảnh tổn thương. Sụp mi hoàn toàn che mất tầm nhìn mắt trái, do tổn thương dây thần kinh số III sau chấn thương sọ não, làm giảm thị lực mắt trái. Chấn thương gan độ II, điều trị bằng nội khoa kết quả tốt. Gãy 1/3 trên xương đùi trái, gãy mâm chày trái và gãy 1/3 giữa xương trụ trái, kết hợp xương nẹp vít.
2. Căn cứ Bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TTBYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định: 69% (sáu mươi chín phần trăm).
3. Đặc điểm, chiều hướng, tình trạng thương tích: qua nghiên cứu hồ sơ tài liệu và khám giám định, nhận định: thương tích sau điều trị đã ổn định và liền sẹo nên không đủ căn cứ xác định chiều hướng”.
* Tài sản, vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô BKS 90B1-80...; 01 (một) xe mô tô BKS 90H1-4... kèm theo giấy đăng ký của xe mô tô này; 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1 số 350180000... mang tên Đỗ Đăng T, 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1 số AV 978... mang tên Trần Thị Tuyết Nh đều do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hà Nam cấp.
* Về trách nhiệm dân sự: Đỗ Đăng T cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường cho bà Trần Thị Tuyết Nh số tiền 30.000.000 đồng, đại diện theo ủy quyền của bà Nh không có ý kiến, đề nghị gì khác, đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đỗ Đăng T.
* Về xử lý vật chứng: trong giai đoạn điều tra, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô BKS 90B1- 80... cho ông Đỗ Văn T1; trả lại xe mô tô BKS 90H1-4... và giấy tờ liên quan cho ông Trần Thanh T3; trả lại Giấy phép lái xe cho bà Trần Thị Tuyết Nh.
Tại bản Cáo trạng số 90/CT-VKSTL ngày 26/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Đỗ Đăng T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Đỗ Đăng T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 260, các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - xử phạt Đỗ Đăng T từ 12 đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: trả lại cho bị cáo 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đỗ Đăng T.
- Bị cáo Đỗ Đăng T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự và có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Trần Thanh T3 không có yêu cầu, đề nghị gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tung tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đinh như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, Đỗ Đăng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm phương tiện, Bản kết luận giám định pháp y về thương tích, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 06 giờ 45 phút ngày 18/6/2020, tại Km 238+870 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Phúc Nhị, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; Đỗ Đăng T (có giấy phép lái xe hạng A1) điều khiển xe mô tô BKS 90B1-80... đi trên Quốc lộ 1A theo hướng Ninh Bình - Phủ Lý. Do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn khi có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, dẫn đến xe mô tô do T điều khiển xô vào xe mô tô BKS 90H1-4... do bà Trần Thị Tuyết Nh điều khiển đang dừng, đỗ ở khoảng trống dải phân cách cứng giữa đường để chờ chuyển hướng sang đường. Hậu quả: bà Nh bị thương tích tỷ lệ tổn thương cơ thể 69%, hai xe mô tô bị hư hỏng.
[3] Hành vi không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn khi có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, không tuân thủ đúng các quy tắc giao thông đường bộ của Đỗ Đăng T đã vi phạm khoản khoản 1 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29 tháng 8 năm 2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ; khoản 1 Điều 12 của Luật Giao thông đường bộ, là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông dẫn đến thương tích của bà Trần Thị Tuyết Nh. Hành vi đó là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm hại đến sức khỏe của người khác. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Đỗ Đăng T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng:
Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân tốt.
Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã “tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và tại phiên tòa đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo là người có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy, không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã tự nguyện thỏa thuận giải quyết xong, nay không còn yêu cầu, đề nghị gì; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu gì; nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô BKS 90B1-80...; xe mô tô BKS 90H1-4... và giấy tờ liên quan; Giấy phép lái xe hạng A1 số AV 978...: quá trình điều tra xác định xe mô tô BKS 90B1-80... là tài sản hợp pháp của ông Đỗ Văn T1 (bố đẻ T); Giấy phép lái xe hạng A1 số AV 978... là giấy tờ hợp pháp của bà Trần Thị Tuyết Nh; xe mô tô BKS 90H1-4... và giấy tờ liên quan là tài sản hợp pháp của ông Trần Thanh T3 (chồng bà Nh), Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản, giấy tờ trên cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng pháp luật.
- Đối với 01 Giấy phép lái xe mang tên Đỗ Đăng T: đây là giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, nên sẽ trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 260; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 của Bộ luật Hình sự,
- Căn cứ vào các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
1. Tuyên bố: bị cáo Đỗ Đăng T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
+ Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng T 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/12/2020).
Giao bị cáo Đỗ Đăng T cho Ủy ban nhân dân xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Án phí: bị cáo Đỗ Đăng T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Xử lý vật chứng: trả lại cho Đỗ Đăng T 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số 350180000... mang tên Đỗ Đăng T do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hà Nam cấp ngày 11/8/2020.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 87/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 87/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về