Bản án 87/2020/DS-PT ngày 29/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH T

BẢN ÁN 87/2020/DS-PT NGÀY 29/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Trong các ngày 14 và 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 363/2019/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Hợp đồng mua bán”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 25/09/2019 của Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 338/2019/TLPT-DS ngày 17 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Mỹ D1, sinh năm 1996; Cư trú tại: Tổ 3, ấp B, xã B1, huyện C, tỉnh T.

Người đại diện hợp pháp của chị D1: Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1985; cư trú tại: Tổ 4, ấp 3, xã P, huyện C, tỉnh T là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 05-12-2018), có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu T2, sinh năm 1970;

Chị Lê Thị L, sinh năm 1968;

Cùng cư trú tại: Tổ 17, ấp Thuận Bình, xã Truông Mít, Huyện D, tỉnh T.

Người đại diện hợp pháp của chị L: Anh Nguyễn Hữu T2, sinh năm 1970 là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 16-7-2019);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trương Ngô Thành N, sinh năm 1982 (có mặt);

Cư trú tại: C2, hẻm 19, Đường Trần Văn Tr, ấp K, xã B2, thành Phố T, tỉnh T.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn – Chị Đặng Thị Mỹ D1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 13-12-2018 và trong quá trình giải quyết nguyên đơn, người đại diện nguyên đơn anh Nguyễn Văn T1 trình bày:

Ngày 02-11-2017, chị Đặng Thị Mỹ D1 và anh Trương Ngô Thành N, vợ chồng anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L có ký hợp đồng mua bán xe tải nhãn hiệu Huynhdai biển số 70C-076-26, số máy D4DBFJ602002; số khung RNH99AKGC 089077; giấy chứng nhận đăng ký do anh T2 đứng tên với giá 510.000.000 đồng, chị D1 đặt cọc cho anh T2 202.000.000, còn lại 308.000.000 đồng chị D1 có trách nhiệm trả tiền góp hàng tháng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần A(viết tắt Ngân hàng A), do xe anh T2, chị L mua trả góp qua ngân hàng, sau khi nhận xe xong chị D1 cho anh Trương Ngô Thành N thuê xe và liên hệ trực tiếp với anh T2, chị L để thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng. Khi trả xong anh T2, chị L có trách nhiệm ký thủ tục sang tên cho chị D1. Sau đó chị D1 phát hiện anh N không còn sử dụng xe mà đã nhờ anh T2 ký thủ tục sang tên xe cho người khác. Do anh T2, chị L vi phạm hợp đồng đặt cọc ngày 02-11-2017 nên anh yêu cầu anh T2, chị L phải trả lại cho chị D1 số tiền là 202.000.000 đồng và bồi thường số tiền tương đương 202.000.000 đồng, tổng cộng là 404.000.000 đồng.

Tại bản tự khai ngày 12-03-2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Hữi Tài, chị Nguyễn Thị Lài trình bày:

Ngày 02-11-2017, vợ chồng anh T2, chị L và chị D1, anh N (anh N, chị D1 được giới thiệu là vợ chồng) ký hợp đồng mua bán xe tải nhãn hiệu Huynhdai biển số 70C-076-26, số máy D4DBFJ602002; số khung RNH99AKGC 089077 với giá 510.000.000 đồng, đã giao trước 208.000.000 đồng còn lại số tiền 308.000.000 đồng. Chị D1 và anh N có trách nhiệm trả góp cho Ngân hàng A, sau khi góp được vài tháng thì anh N yêu cầu vợ chồng anh đến ngân hàng làm thủ tục tất toán và sang tên. Sau đó anh chị đã ký hoàn tất các thủ tục cho anh N và không còn liên quan đến hợp đồng mua bán xe nữa. Nay chị D1 yêu cầu anh chị trả số tiền cọc 202.000.000 đồng và bồi thường số tiền 202.000.000 đồng, tổng cộng 404.000.000 đồng, anh chị không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.

Tại bản tự khai ngày 14-3-2019 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trương Ngô Thành N trình bày:

Ngày 02-11-2017, anh và chị D1 có mua của anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L 01 xe tải nhãn hiệu Huynhdai biển số 70C-076-26, số máy D4DBFJ602002; số khung RNH99AKGC 089077 trị giá 510.000.000 đồng, xe này anh T2 đang vay Ngân hàng Akhoảng 300.000.000 đồng nên anh và chị D1 trả cho anh T2 số tiền mặt khoảng 210.000.000 đồng (anh không nhớ rõ số tiền), riêng phần trả góp ngân hàng thì anh và chị D1 có trách nhiệm trả tiếp cho ngân hàng mỗi tháng 10.000.000 đồng.

Sau khi mua xe, chị D1 bán xe trên cho anh, số tiền chị D1 đã trả mua xe là tiền anh mượn trước của chị D1 và thỏa thuận hàng tháng anh trả cho chị D1 15 triệu và trả tiền ngân hàng 10 triệu, tổng cộng 25 triệu. Đến khoảng tháng 4-2008 do làm ăn thua lỗ nên anh bán xe được 450.000.000 đồng và dùng số tiền đó trả nợ cho ngân hàng, số tiền anh còn thiếu chị D1 anh sẽ gặp chị D1 đối chiếu công nợ sau. Nay anh xác định giao dịch mua bán xe giữa chị D1 và anh T2, chị L đã thực hiện xong, anh T2, chị L không có thiếu chị D1 bất cứ khoản tiền nào.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh T đã quyết định:

n cứ vào các Điều 328; 430 của Bộ luật Dân sự;

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Mỹ D1 đối với anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L về việc yêu cầu trả số tiền mua bán xe là 202.000.000 đồng (hai trăm lẻ hai triệu đồng).

- Đình chỉ 01 phần yêu cầu của chị Đặng Thị Mỹ D1 đối với anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L bồi thường số tiền 202.000.000 đồng (hai trăm lẻ hai triệu đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 08-10-2019, người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc anh T2, chị L phải trả cho chị D1 202.000.000 đồng.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành của người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Tuyến giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Xét yêu cầu kháng cáo của chị Đặng Thị Mỹ D1 thì thấy rằng:

[1] Các đương sự thống nhất, ngày 02-11-2017 các bên ký kết giấy bán xe tải nhãn hiệu Huynhdai biển số 70C-076-26, số máy D4DBFJ602002; số khung RNH99AKGC 089077 số tiền 510.000.000 đồng đặt cọc trước số tiền 202.000.000 đồng, còn lại 308.000.000 đồng bên mua sẽ trả hàng tháng tại ngân hàng cho đến khi thanh toán đủ số tiền 510.000.000 đồng. Chị D1 cho rằng sau khi ký giấy mua bán xe chị giao xe cho anh N thuê và anh N trả nợ ngân hàng nhưng không được anh N thừa nhận chị D1 không có chứng cứ chứng minh lời trình bày của chị là có cơ sở.

[2] Tại phiên tòa, anh N xuất trình hợp đồng bán xe trả góp giữa anh và chị D1 thể hiện nội dung “bán xe lại cho anh Trương Ngô Thành N...với hình thức trả góp hàng tháng với số tiền 15.000.000 đồng trong vòng 20 tháng kết thúc. Bên cạnh đó, anh N mua xe có trách nhiệm góp khoản vay còn lại của chiếc xe tại Ngân hàng A là 10.000.000 đồng cho đến hết 30 tháng tại Ngân hàng trên” và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thừa nhận nội dung hợp đồng bán xe trên.

Thực hiện hợp đồng mua bán trên hàng tháng anh N chuyển tiền thanh toán cho chị D1 và Ngân hàng. Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thừa nhận anh N đã trả nợ Ngân hàng (bút lục 77). Anh N thanh toán nợ Ngân hàng xong nên anh T2, chị L làm thủ tục sang tên sở hữu đối với xe tải biển số 70C-076-26 là phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D1 là có căn cứ, trường hợp chị D1 cho rằng quyền lợi của chị D1 bị xâm phạm thì chị D1 có quyền khởi kiện anh N trong vụ kiện khác.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của chị Đặng Thị Mỹ D1 không được chấp nhận nên chị D1 phải chịu tiền án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 29, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

n cứ các Điều 328; 430 của Bộ luật Dân sự; Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh T.

1. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Mỹ D1 đối với anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L về việc yêu cầu trả số tiền mua bán xe là 202.000.000 đồng (hai trăm lẻ hai triệu đồng).

2. Đình chỉ 01 phần yêu cầu của chị Đặng Thị Mỹ D1 đối với anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L bồi thường số tiền 202.000.000 đồng (hai trăm lẻ hai triệu đồng).

3. Về án phí dân sự:

- Án phí sơ thẩm: Chị Đặng Thị Mỹ D1 phải chịu 10.100.000 đồng (mười triệu một trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền án phí đã tạm nộp 10.080.000 đồng (mười triệu không trăm tám mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 0011252 ngày 24 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện D, tỉnh T, chị D1 còn phải nộp thêm 20.000 đồng (hai mươi ngàn đồng).

Anh Nguyễn Hữu T2, chị Lê Thị L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí phúc thẩm: Chị D1 phải chịu 300.000 đồng tiềm án phí nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003789 ngày 09/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện D, tỉnh T.

Trưng hợp quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án , tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Bn án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2020/DS-PT ngày 29/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:87/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về