Bản án 87/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 87/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Giàng A N, sinh năm 1987, tại huyện B, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Ông L, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A S và bà Lù Thị G; bị cáo có vợ là Thào Thị D và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/01/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ 00 phút ngày 22/01/2019, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Giàng A N đã phát hiện Giàng A N đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 02 viên nén màu hồng, Giàng A N khai là Methamphetamine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, dẫn giải Giàng A N về Công an huyện M để điều tra làm rõ, tạm giữ 01 xe ôtô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, BKS: 29H-144.46, số khung: 6U216504, số máy: 6001341; 01 giấy đăng ký xe ôtô số: 513557; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7724208, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ôtô số: 80008880; 01 giấy bán xe ô tô và 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ; 02 điện thoại di động trong đó 01 chiếc nhãn hiệu GIOMEE L800, màu bạc và 01 chiếc nhãn hiệu OPPO A1601; tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000đ.

Ngày 23/01/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng số ma túy của Giàng A N, kết quả: 02 viên nén màu hồng thu giữ của Giàng A N có khối lượng 0,19 gam, lấy hết 02 viên có khối lượng 0,19 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu “N”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 282 ngày 25/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu N là ma túy, loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,19 gam; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Giàng A N khai nhận: khoảng 12 giờ ngày 20/01/2019 Giàng A N đang ở lán nương của gia đình ở bản Ông L, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La một mình thì có một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đi qua, N hỏi và mua được của người đàn ông đó 04 viên Methamphetamine với giá 100.000đ mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được Methamphetamine N một mình sử dụng hết 02 viên Methamphetamine, còn lại 02 viên N dùng mảnh nilon màu trắng gói lại rồi cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc để sử dụng dần. Đến khoảng 16 giờ ngày 22/3/2019, khi N đang ở nhà bố mẹ tại bản Ông L xã C, huyện M, tỉnh Sơn La thì có cháu ruột là Giàng A S, sinh năm 2003 và Hạng A C, sinh năm 1993 cùng trú tại bản Ông L, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La đến nhờ Giàng A N điều khiển xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, BKS: 29H-144.46 ra thị trấn M để sửa phanh tay. N đồng ý và bảo S và C đi bộ đến khu vực đầu bản chờ N. Sau đó N lên ôtô, lấy gói nilon màu trắng đựng 02 viên Methamphetamine ra bóc vứt bỏ mảnh nilon màu trắng và để 02 viên Methamphetamine trong cốp xe trong cabin xe ôtô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, mục đích để khi ra thị trấn có nhu cầu sẽ sử dụng một mình. Khi đến thị trấn do trời tối nên N, S, C cùng nhau đi ăn cơm rồi đi đến nhà nghỉ Đ tại tiểu khu 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La thuê phòng 205 để nghỉ. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi N, S và C đang ở trong phòng 205 nhà nghỉ Đ thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bản cáo trạng số: 78/CT-VKSMC ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Giàng A N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Giàng A N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Giàng A N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Giàng A N từ 21 tháng đến 24 tháng tù;

Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000đ đến 2.000.000đ.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A N; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A Sg; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Hạng A C; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A 1601 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 1.000.000đ.

Tạm giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO – A1601 bên trong điện thoại không lắp sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800 bên trong điện thoại có 01 sim số thuê bao 0382.587.896; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000đ để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện M đã trả lại 01 xe ôtô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, màu sơn xanh, BKS: 29H-144.46, số khung: 6U216504, số máy: 6001341 (xe đã qua sử dụng cũ); 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 513557; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7724208; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số: 80008880; 01 giấy bán xe ô tô; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ cho chủ sở hữu là ông Giàng A C (Giàng A C là bố đẻ của Giàng A S).

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Giàng A N thừa nhận: Hồi 23 giờ 00 phút ngày 22/01/2019 Giàng A N đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 02 viên Methamphetamine có khối lượng 0,19 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Giàng A N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO – A1601 bên trong điện thoại không lắp sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800 bên trong điện thoại có 01 sim số thuê bao 0382.587.896; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000đ, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo một khoản tiền nhất định là phù hợp.

[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A N; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A S; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Hạng A C; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A 1601 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 1.000.000đ. Là vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, màu sơn xanh, BKS: 29H-144.46, số khung: 6U216504, số máy: 6001341 (xe đã qua sử dụng cũ); 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 513557; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7724208; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số: 80008880; 01 giấy bán xe ô tô; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe ô tô và các giấy tờ trên là tài sản hợp pháp của ông Giàng A C, bị cáo sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội ông C hoàn toàn không biết và không liên quan. Việc cơ quan CSĐT đã giao trả chiếc xe cho ông C quản lý và sử dụng là đúng quy định của pháp luật, do đó không đề cập tới việc giải quyết.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO – A1601 bên trong điện thoại không lắp sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800 bên trong điện thoại có 01 sim số thuê bao 0382.587.896; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000đ. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo. Không liên quan đến việc phạm tội. Do đó cần tuyên tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Thái đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với Giàng A S và Hạng A C quá trình điều tra xác định việc Giàng A N cất giấu 02 viên Methamphetamine trong cốp xe ôtô nhãn hiệu HUYNDAI PORTER II, BKS: 29H-144.46, S và C hoàn toàn không biết nên không đề cập đến vấn đề xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Giàng A N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23/01/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vỏ gói niêm phong ban đầu vụ Giàng A N, bắt ngày: 22/01/2019: Bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Giàng A N ngày 23/01/2019. KQ: Dương tính, bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A N; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Hạng A C ngày 23/01/2019. KQ: Âm tính, bên trong đựng 01 test thử ma túy của Hạng A C; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Giàng A S ngày 23/01/2019. KQ: Âm tính, bên trong đựng 01 test thử ma túy của Giàng A S; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A 1601 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE – L800; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 1.000.000đ.

Tạm giữ của bị cáo Giàng A N: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A1601 bên trong điện thoại không lắp sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIOMEE-L800 bên trong điện thoại có 01 sim số thuê bao 0382.587.896; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000đ (Một triệu đồng). Để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Giàng A N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/5/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về