Bản án 87/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 87/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế H, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 02 tháng 02 năm 1986 tại huyện N, tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương; chỗ ở: Thôn Đ, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế B và bà Bùi Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2005/HSPT ngày 27/01/2005 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 08 năm tù về tội Cướp tài sản, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 184/HSST ngày 30/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 24/7/2019 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lý Thị D, sinh năm 1989. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Đường Đình L, sinh năm 1988. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thế H, sinh ngày 02/02/1986; đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghiện chất ma túy. Khoảng tháng 6/2018, Nguyễn Thế H đến sinh sống với chị Lý Thị D tại thôn Đ, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Trong thời gian này Nguyễn Thế H thường xuyên đến địa bàn xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn tìm mua ma túy về sử dụng.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 24/7/2019, Nguyễn Thế H một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1-026.** đi từ thôn Đ, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn đem theo 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng đến cửa khẩu T2 mục đích tìm mua ma túy đem về sử sụng. Đến nơi, Nguyễn Thế H để xe mô tô tại khu vực chân đồi K, đi bộ lên đỉnh đồi K, thuộc thôn N, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Tại đây, Nguyễn Thế H và hỏi mua ma túy với một người đàn ông Trung Quốc tên B (không biết họ và địa chỉ) khoảng 30 tuổi, B đồng ý. Nguyễn Thế H đưa cho B 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng; B nhận tiền và đưa lại cho Nguyễn Thế H 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong chứa 08 (tám) gói giấy kẻ ô ly màu trắng, trong mỗi gói giấy đều chứa chất ma túy heroine. Nguyễn Thế H nhận số ma túy trên rồi cất giấu vào trong túi quần đằng trước bên phải đang mặc, sau đó đi bộ theo đường mòn về chân đồi K, lấy xe mô tô đi về; khi đi đến khu vực thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Thế H dựng xe ở cạnh đường, đi vào khu vực bụi chuối ven đường, lấy một ít ma túy từ một trong các gói ma túy vừa mua được ra sử dụng; số ma túy còn lại Nguyễn Thế H cất giấu vào túi quần đằng trước bên phải, đang mặc. Sau đó, Nguyễn Thế H lên đường để lấy xe về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang vào hồi 16 giờ cùng ngày.

Tổ công tác đã tạm giữ của Nguyễn Thế H gồm:

+ 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong chứa 08 (tám) gói giấy kẻ ô ly màu trắng, trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nguyễn Thế H”;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, bên trong lắp 01 (một) sim VINAPHONE;

+ 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu xanh, đã qua sử dụng, mang biển kiểm soát 12V1-026.**.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Thị D.

+ 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS mang tên Lý Thị D.

Tại Kết luận giám định số 301/KL-PC09 ngày 26/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 08 (tám) gói giấy kẻ ô ly màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,237 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 31/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong và toàn bộ vỏ bao gói là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, bên trong lắp 01 (một) sim VINAPHONE; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H, là giấy tờ, tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thế H đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

Chị Lý Thị D trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-026.** và đăng ký xe, giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS là của chị, chị cho Nguyễn Thế H mượn xe đi làm; chị không biết Nguyễn Thế H sử dụng xe đi mua ma túy, tàng trữ để sử dụng; cơ quan điều tra đã trả lại cho chị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-026.** và các giấy tờ có liên quan; nay chị không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 16 giờ ngày 24/7/2019, tại thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thế H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy heroine, có khối lượng là 0,237 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; tuy nhiên năm 2005 bị cáo bị xử phạt 08 năm tù về tội Cướp tài sản; năm 2013 bị xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; sau khi ra tù bị cáo lại tiếp tục sử dụng ma túy.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 20/9/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,183 gam heroine) được để trong một phong bì thư niêm phong ghi “QT Nguyễn Thế H” và toàn bộ các vỏ bao gói; là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen bên trong lắp 01 (một) sim VINAPHONE và 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H là giấy tờ, tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-026.**, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy và 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS, quá trình điều tra xác định là của chị Lý Thị D, chị Lý Thị D không biết bị cáo sử dụng xe mô tô đi mua ma túy để tàng trữ, sử dụng, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô và các giấy tờ cho chị Lý Thị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Đối với người đàn ông tên B bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai là người Trung Quốc, không biết họ và địa chỉ. Cơ quan điều tra không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/7/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,183 gam heroine) được để trong một phong bì thư niêm phong ghi “QT Nguyễn Thế H” và toàn bộ các vỏ bao gói.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen bên trong lắp 01 (một) sim VINAPHONE và 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/11/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thế H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về