TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 87/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 01 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 331/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 286/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Mỹ T, sinh năm 1991;
Địa chỉ: Khu công nghiệp B, đường X, xã Y, huyện Z, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Anh Lê Trường L, sinh năm 1993;
Địa chỉ: Số D, ấp A, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.
(Chị T có đơn xét xử vắng mặt; anh L vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2019, bản tự khai, cùng các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án và cũng như đơn xin vắng mặt ngày 28/9/2019, nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Trường L đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng cùng nhau làm việc tại ấp huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, vợ chồng cùng nhau làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra, anh L đi làm về không quan tâm chăm sóc vợ con trong thời gian chị mang thai cũng như sau khi sinh con. Do đó, đến tháng 6/2019 chị đã chuyển đến xã Y, huyện Z, tỉnh Long An để sinh sống và làm việc. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Trường L.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Khánh Đ, sinh ngày XYZ. Hiện nay con chung đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Chị T trình bày không có.
Tại bản tự khai ngày 15/8/2019, biên bản hòa giải ngày 15/8/2019, bị đơn anh Lê Trường L trình bày:
Anh thống nhất với lời trình bày của chị Đặng Thị Mỹ T về thời gian, địa điểm, đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có với nhau 01 con chung tên Lê Khánh Đ, sinh ngày XYZ. Quá trình chung sống, vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh đi làm, chị T ở nhà nội trợ, công việc nặng nên khi đi làm về anh ít nói chuyện với vợ và phụ vợ chăm sóc con chung. Đến tháng 6/2019 chị T và con chung về huyện sinh sống và làm việc. Vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị T yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì anh thấy anh không có lỗi lầm gì.
Về con chung: Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T, anh yêu cầu trực tiếp nuôi con, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, anh đang làm tài xế lái xe đổ bê tông cho công ty tư nhân ở quận M, Thành phố Hồ Chí Minh với mức thu nhập mỗi tháng 10 triệu đồng.
Về tài sản chung: Anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Anh L trình bày không có.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ T, cụ thể: Về hôn nhân: Chị T được ly hôn với anh L; Về con chung: chị T được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu; Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết; Về nợ chung: không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 05/8/2019, chị Đặng Thị Mỹ T có đơn khởi kiện ly hôn với anh Lê Trường L. Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 05/8/2019 (BL 03,04) cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Chị T khởi kiện về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh L, đây là loại việc thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm thụ lý, anh L có nơi cư trú tại ấp A, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Đối chiếu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam.
[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ T có đơn xin giải quyết vắng mặt. Đối bị đơn Lê Trường L, Toà án đã tiến hành thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh L theo đúng quy định tại các điều 175, 177, 196, 208 và Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh L vẫn cố tình vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[4] Về nội dung tranh chấp:
4.1. Về quan hệ hôn nhân: Ngày 09/5/2016, chị T và anh L tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa chị T và anh L là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T trình bày vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau nên chị T quyết định ly hôn với anh L. Hội đồng xét xử xét thấy việc chị T và anh L không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Tòa án triệu tập anh L đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng của anh và chị T nhưng anh L không có mặt. Ngoài ra, tại Biên bản làm việc vối bà Trần Thị H (mẹ ruột của anh L) thể hiện nội dung: “… do con tôi Lê Trường L ít nói, mệt mỏi trong công việc nên ít nói chuyện với cháu T, từ đó hai bên phát sinh mâu thuẫn. Khi cháu T và cháu nội dọn về Long An sinh sống, cháu T có gọi báo cho tôi biết. Nay cháu T yêu cầu ly hôn, tôi cũng không có ý kiến gì…” Từ các căn cứ trên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh L có xảy ra, mặc dù anh L không đồng ý ly hôn nhưng anh L không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ với chị T, do đó mâu thuẫn giữa chị T và anh L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.
4.2. Về con chung: Quá trình chung sống, chị T và anh L có với nhau một con chung tên Lê Khánh Đ, sinh ngày XYZ. Sau khi ly hôn, chị T và anh L đều có yêu cầu trực tiếp nuôi con, chị T và anh L đều không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy: trong quá trình giải quyết vụ án, chị T và anh L đều trình bày con chung hiện nay đang sống chung với chị T. Bên cạnh đó, vào ngày 27/8/2019 chị T đã cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh chị T có nghề nghiệp ổn định và hiện cháu Đ đang tham gia lớp học Mầm Non T tại huyện Z, tỉnh Long An. Đối với anh L, mặc dù Tòa án đã tống đạt Thông báo giao nộp tài liệu chứng cứ với nội dung yêu cầu anh L cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh anh L đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, tuy nhiên đến nay anh L không cung cấp tài liệu chứng cứ nêu trên. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu Đ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị T không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4.3. Về tài sản chung: Chị T và anh L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4.4. Về nợ chung: Chị T và anh L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị T có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Các điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với bị đơn anh Lê Trường L, cụ thể:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Mỹ T được ly hôn với anh Lê Trường L.
- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Lê Khánh Đ, sinh ngày XYZ.
Sau khi ly hôn, chị Đặng Thị Mỹ T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Ghi nhận chị Đặng Thị Mỹ T không yêu cầu anh Lê Trường L cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Mỹ T và anh Lê Trường L đều trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về nợ chung: Chị Đặng Thị Mỹ T và anh Lê Trường L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2. Án phí: Chị Đặng Thị Mỹ T có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006314 ngày 05/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M (đã nộp xong).
3. Chị Đặng Thị Mỹ T và anh Lê Trường L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 87/2019/HNGĐ-ST ngày 01/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 87/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về