Bản án 87/2017/HSPT ngày 24/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 87/2017/HSPT NGÀY 24/10/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2017, tại Nhà văn hóa phường Lộc Sơn, thành phố Bảo Lộc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2017/HSPT ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Trần Minh Tr do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 62/2017/HSST ngày 14/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Minh Tr, sinh năm 1990 tại Lâm Đồng; Nơi ĐKHKTT: Thôn 5, xã N, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Số nhà 08/14 đường Đ, Phường 1, thành phố BL, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Long B và bà Nguyễn Thị A, cả hai đang sinh sống tại thôn 5, xã N, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/3/2017 cho đến nay. Có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Thị Thu T, Hoàng Ngọc T1 không kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 40 phút ngày 01/3/2017, tại số nhà 04/08 đường PNT, phường P, thành phố BL, Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc đã bắt quả tang Hoàng Ngọc T1 có hành vi tàng trữ 01 gói nilon hàn kín, kích thước 02x03cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, giấu trong chiếc ví da để ở túi quần Jean do T1 đang mặc, (Theo bị cáo T1 khai là chất ma túy). Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo T1 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1320 màu đen, số tiền 1.500.000đ và 01 giấy chứng nhận đăng ký nghĩa vụ quân sự mang tên Hoàng Ngọc T1.

Đến 18 giờ cùng ngày, cũng tại số nhà 04/08 đường PNT, phường P, thành phố BL, Cơ quan điều tra tiếp tục bắt quả tang Nguyễn Thị Thu T có hành vi tàng trữ trong người 01 túi nilon, bên trong có chứa 17 gói nilon nhỏ, (Bao gồm: 06 gói ni lon kích thước 01x03cm; 05 gói nilon kích thước 02x03cm; 04 gói nilon kích thước 03x3,5cm; 02 gói nilon kích thước 05x6,5cm) bên trong đều chứa các hạt tinh thể màu trắng (Theo bị cáo T khai là chất ma túy). Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ của bị cáo T số tiền 560.000đ.

Theo Kết luận giám định số 371/GĐ-PC54, ngày 04/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng thì chất ở dạng tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo T1 có khối lượng 1,7028g là Methamphetamine.

Theo Kết luận giám định số 370/GĐ-PC54, ngày 04/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng thì chất ở dạng tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo T có khối lượng 8,6107g là Methamphetamine.

Sau khi bị bắt các bị cáo T1, T khai nhận số ma túy trên là do Trần Minh Tr giao cho T1, sau đó T1 đưa lại cho T để phân nhỏ thành 20 gói mang bán kiếm lời. Vì vậy, ngày 02/3/2017 Cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt và khám xét nơi ở của bị cáo Tr tại số 08/14 đường Đ, tổ 5, phường 1, thành phố BL, đã thu giữ 01 nỏ thủy tinh, 01 bình thủy tinh để sử dụng ma túy, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, số tiền 3.000.000đ và 01 chứng minh nhân dân tên Trần Minh Tr. Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận việc mua bán ma túy như sau:

Vào ngày 27/02/2017 bị cáo Tr đã chuyển số tiền 10.000.000đ cho đối tượng tên Q (chưa rõ lai lịch) tại thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy, sau đó Q đã gửi qua xe khách mang về BL cho Tr 01 gói ma túy. Vào trưa ngày 28/02/2017, bị cáo Tr gọi điện nói bị cáo T đến nơi ở của bị cáo Tr để lấy ma túy, do bị cáo T bận nên đã sai bị cáo T1 đến lấy. Sau khi nhận ma túy từ bị cáo Tr thì bị cáo T1 đã giao cho bị cáo T để chia nhỏ thành 20 gói; bị cáo T đưa cho bị cáo T1 03 gói để bán, còn giữ lại 17 gói chưa kịp bán thì bị bắt.

Vào ngày 01/3/2017, bị cáo Tr gọi điện nói bị cáo T mang ma túy đi bán, do bận việc nên bị cáo T sai bị cáo T1 mang 01 gói ma túy bán cho đối tượng tên L (không rõ lai lịch) với giá 250.000đ, mang 01 gói ma túy bán cho tên G tại khu vực cây xăng trên đường T, phường P, thành phố BL với giá 300.000đ; còn lại 01 gói ma túy T1 đang giấu trong người thì bị bắt.

Quá trình điều tra bị cáo Tr còn khai nhận đã 03 lần bán ma túy như sau:

Lần 1: Vào ngày 16/02/2017, tại số nhà 08/14 đường Đ, tổ 5, phường 1, thành phố BL, bị cáo Tr đã bán cho Nguyễn Minh K 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ.

Lần 2: Vào ngày 26/02/2017, tại cổng Trung tâm Y tế thành phố Bảo Lộc, bị cáo Tr đã bán cho Nguyễn Xuân L, trú tại số 31 đường Q, phường P, thành phố BL 01 gói ma túy đá với giá 2.500.000đ.

Lần 3: Vào ngày 28/02/2017, tại số nhà 08/14 đường Đ, tổ 5, phường 1, thành phố BL, bị cáo Tr đã bán cho Nguyễn Xuân L 01 gói ma túy đá với giá 3.000.000đ.

Bị cáo T còn khai nhận đã 02 lần bán ma túy cho Trần Thanh M, trú tại thôn 5, xã N, huyện L, cụ thể như sau:

Lần 1: Vào ngày 09/02/2017, tại hẻm 56 đường K, phường 2, thành phố BL, bị cáo T đã bán cho Trần Thanh M 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ.

Lần 2: Vào ngày 18/02/2017, tại quán cà phê Sonata, thuộc địa bàn phường 1, thành phố BL, bị cáo T đã bán cho Trần Thanh M01 gói ma túy đá với giá 200.000đ.

Bị cáo T1 còn khai nhận 02 lần được bị cáo T sai đi bán ma túy cho Trần Thanh M, cụ thể như sau:

Lần 1: Vào ngày 20/02/2017, tại khu vực cổng công ty may B, thuộc địa phận phường P, thành phố BL, bị cáo T1 đã bán cho Trần Thanh M 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ.

Lần 2: Vào ngày 24/2/2017, tại khu vực phía sau cây xăng trên đường T, thuộc địa phận phường P, thành phố BL, bị cáo T1 đã bán cho Trần Thanh M01 gói ma túy đá với giá 300.000đ.

Bản án số 62/2017/HSST ngày 14/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc tuyên bố các bị cáo Trần Minh Tr, Nguyễn Thị Thu T, Hoàng Ngọc T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Minh Tr 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/3/2017.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/3/2017.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc T1 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/3/2011.

Bản án còn xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Ngày 25/8/2017 bị cáo Trần Minh Tr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên kháng cáo, không thắc mắc, khiếu nại bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Trong thời gian từ ngày 09/02/2017 đến ngày 01/3/2017 bị cáo Trần Minh Tr cùng với Nguyễn Thị Thu T, Hoàng Ngọc T1 đã nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy; trong đó bị cáo Trần Minh Tr là người mua ma túy tại thành phố Hồ Chí Minh về giao cho bị cáo T đi bán, bản thân bị cáo cũng trực tiếp bán ma túy nhiều lần. Xét cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để tuyên phạt bị cáo mức án 08 năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ xem xét. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh Tr, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Minh Tr 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/3/2017.

2. Về án phí: Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Minh Tr phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HSPT ngày 24/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về