Bản án 86/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 86/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/5/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 62/2021/QĐ-ST ngày 11/6/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Thái Đ, sinh năm: 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Chị Vũ Thị Q, sinh năm: 1979 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Hiện đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ).

Địa chỉ cuối cùng của chị Vũ Thị Q tại Việt Nam: thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 12/3/2021, nguyên đơn anh Hoàng Thái Đ trình bày:

Anh và chị Vũ Thị Q được tự do tìm hiểu trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 31/10/1998 tại UBND xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau hạnh phúc và đã có với nhau được 2 con chung. Năm 2008 vì hoàn cảnh gia đình vợ anh đi sang nước ngoài lao động và từ đó đến nay chưa về thăm gia đình lần nào, anh và gia đình đã gọi về nhiều lần nhưng chị Q không chịu về, vợ chồng đã mệt mỏi với cuộc sống mỗi người một nơi, vợ anh cũng muốn ly hôn và các con anh cũng đồng ý cho bố mẹ ly hôn. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị Q.

- Về con chung: Anh và chị Vũ Thị Q có 02 con chung là cháu Hoàng Thị Ngọc Á, sinh năm 2000 và cháu Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003. Ly hôn anh đề nghị được nuôi dưỡng cháu K và không yêu cầu chị Q phải đóng góp phí tổn nuôi con chung, còn cháu Hoàng Thị Ngọc Á đã trưởng thành nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh Đ còn trình bày: Hiện nay chị Q vẫn ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể của chị Q ở nước ngoài anh không cung cấp được cho Tòa án được vì anh có hỏi địa chỉ của chị Q nhưng chị Q không cung địa chỉ ở nước ngoài cho anh,chị Q vẫn liên lạc về gia đình nhưng bố đẻ chị Q là ông Vũ Văn T và bà Đoàn Thị Q; trú tại: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang cũng không cung cấp địa chỉ nên anh không biết để cung cấp cho Tòa án.

Do tính chất công việc nên anh không thể tham gia được các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa anh và chị Q được, nên chị đề nghị Tòa án cho anh được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh và chị Vũ Thị Q.

Cháu Hoàng Phi K trình bày: Cháu là con của bố Hoàng Thái Đ và mẹ Vũ Thị Q, hiện nay cháu đang ở cùng với bố Hoàng Thái Đ. Nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu xin được ở với bố cháu là Hoàng Thái Đ.

Bị đơn chị Vũ Thị Q không có bản tự khai.

Ngày 12/4/2021 và ngày 19/4/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của chị Vũ Thị Q là ông Vũ Văn T, sinh năm 1955; trú tại: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu ông T thông báo chochị Q biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Hoàng Thái Đ và chị Vũ Thị Q; yêu cầu chị Q viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu ông Thân cung cấp địa chỉ cụ thể của chị Q ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua hai lần làm việc ông T vẫn giữ nguyên quan điểm là chị Q ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình nhưng ông không cung cấp địa chỉ cụ thể củachị Q ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân củachị Q, đồng thời ông cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị Q biết đểchị Q gửi lời khai về. Kể từ đó đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của chị Q gửi về.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Hoàng Thái Đ vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị Vũ Thị Q vắng mặt không có lý do.

Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung án vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai củaanh Đ; Biên bản làm việc với bố đẻ của chị Q là ông Vũ Văn T và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với nguyên đơn anh Hoàng Thái Đ có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chị Vũ Thị Q không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với chị Vũ Thị Q; Căn cứ vào quy định của pháp luật xét xử vắng mặt chị Vũ Thị Q là đúng.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 51, 53, 56; điều 81, 82, 83 và khoản 2 điều 123, điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 điều 35; điểm c khoản 1 điều 37; khoản 4 điều 147; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; 238; điều 271; điều 273; khoản 2 điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Thái Đ.

Xử cho anh Hoàng Thái Đ được ly hôn chị Vũ Thị Q.

Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003 cho anh Hoàng Thái Đ nuôi dưỡng, chăm sóc.

Anh Hoàng Thái Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: anh Hoàng Thái Đ là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Hoàng Thái Đ.

Đối với bị đơn chị Vũ Thị Q vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của chị Vũ Thị Q là Vũ Văn T để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu ông T thông báo cho chị Q biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Hoàng Thái Đ với chị Vũ Thị Q, yêu cầu ông T cung cấp địa chỉ cụ thể củachị Q ở nước ngoài. Ông Vũ Văn T trình bày: chị Q vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà ông T vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của chị Q cho Tòa án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị Q biết. Nhận thấy đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn chị Vũ Thị Q.

[2].Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Hoàng Thái Đi là nguyên đơn có đơn xin ly hôn chị Vũ Thị Q, chị Q hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 7020/QLXNC-P5 về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 29/3/2021 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an), thì chị Q xuất cảnh ngày 24/6/2008 hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại, địa chỉ cuối cùng của chị Q ở Việt Nam là: Thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Anh Hoàng Thái Đ và chị Vũ Thị Q kết hôn ngày 31/10/1998 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Theo anh Đ trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau hạnh phúc và có với nhau được 2 con chung. Năm 2008 vì hoàn cảnh gia đình vợ anh đi sang nước ngoài lao động và từ đó đến nay chưa về thăm gia đình lần nào, anh và gia đình đã gọi về nhiều lần nhưng chị Q không chịu về, vợ chồng đã mệt mỏi với cuộc sống mỗi người một nơi, vợ anh cũng muốn ly hôn và các con anh cũng đồng ý cho bố mẹ ly hôn. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị Q.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Hoàng Thái Đ với chị Vũ Thị Q. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn anh Đ và chị Q chung sống với nhau hạnh phúc, đến năm 2008 thì chị Q đi lao động ở nước ngoài đến nay đã hơn 10 năm chưa về nước,anh Đ đã nhiều lần gọichị Q về nước để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị Q vẫn không về dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, vợ chồng đã không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Đ vàchị Q đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Thái Đ. Xử cho anh Hoàng Thái Đ được ly hôn chị Vũ Thị Q.

[4]. Về nuôi con chung: Anh Hoàng Thái Đ và chị Vũ Thị Q có 02 con chung, là cháu Hoàng Thị Ngọc Á, sinh năm 2000 và cháu Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003. Ly hôn anh Đ đề nghị được nuôi dưỡng cháu Hoàng Phi K và không yêu cầu chị Q phải đóng góp phí tổn nuôi con chung, còn cháu Hoàng Thị Ngọc Á đã trưởng thành nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Xét yêu cầu được nuôi con chung Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003 của anh Hoàng Thái Đ: Hội đồng xét xử thấy hiện nay chị Q đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị Vũ Thị Q từ khi đi nước ngoài thì các con chung của vợ chồng vẫn doanh Đ là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu phát triển bình thường, được đi học đầy đủ. Ngoài ra, cháu K trên 7 tuổi có nguyện vọng được ở cùng bố khi bố mẹ ly hôn. Do đó, căn cứ điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Thái Đ về nuôi con chung. Giao cháu Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003 cho anh Hoàng Thái Đ nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cháu Khánh đủ 18 tuổi là phù hợp điều kiện thực tế và đảm bảo quyền và lợi ích con chung.

Đối với cháu Hoàng Thị Ngọc Á, sinh năm 2000 đã trưởng thành anh Hoàng Thái Đ không yêu cầu giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Hoàng Thái Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Chị Vũ Thị Q có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Q hực hiện quyền này.

Trường hợp chị Vũ Thị Q về Việt Nam có nguyện vọng nuôi con chung, chị Q có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh Hoàng Thái Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí:Anh Hoàng Thái Đ phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1.Về hôn nhân: Anh Hoàng Thái Đ được ly hôn chị Vũ Thị Q

2.Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng Phi K, sinh ngày 05/11/2003 cho anh Hoàng Thái Đ là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung do anh Hoàng Thái Đ không yêu cầu nên chị Vũ Thị Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đ.

Sau khi ly hôn, chị Vũ Thị Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở chị Q thực hiện quyền này.

3.Về án phí:Anh Hoàng Thái Đ phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000008 ngày 08/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận anh Hoàng Thái Đ đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo bản án: Anh Hoàng Thái Đ vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Chị Vũ Thị Q hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:86/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về