Bản án 86/2021/DS-PT ngày 01/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 86/2021/DS-PT NGÀY 01/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 01 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2021/TLPT-DS ngày 20 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 73/2020/DS-ST ngày 02/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐ-PT ngày 05 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Cúc M, sinh năm 1968 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Bà Lê Thị G, sinh năm 1961 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1942 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn – Lê Thị G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm;

Nguyên đơn – bà Lê Thị Cúc M trình bày: Năm 2003, bà có cho chị ruột là bà Lê Thị G mượn 05 chỉ vàng 24k, mục đích để bà G làm ăn sinh sống vì lúc đó bà G quá khó khăn và bà có nhờ chị ruột là bà Lê Thị Đ đưa số vàng này cho bà G. Do là chị em trong gia đình nên khi mượn vàng không có làm biên nhận nhưng sự việc này có bà Đ biết do bà là người trực tiếp giao vàng cho bà G. Hiện cuộc sống của bà G đã ổn định, bản thân bà hằng ngày phải đi bán vé số kiếm sống, hoàn cảnh rất khó khăn nên bà có yêu cầu bà G trả số vàng này nhưng bà G không trả. Nay bà yêu cầu bà Lê Thị G trả toàn bộ 05 chỉ 24k.

Bị đơn – bà Lê Thị G trình bày: Bà là chị ruột của bà Lê Thị Cúc M (bà thứ 6 còn bà M thứ 10). Khoảng tháng 11 năm 2000, bà có nhận trực tiếp từ chị ruột thứ 2 tên Lê Thị Đ số vàng 05 chỉ 24k (01 chiếc nhẫn 05 chỉ), nguồn gốc số vàng này có được từ việc bà M bán đất của cha mẹ để lại, bà M bán được 02 cây 08 chỉ 05 phân vàng 24k nhưng bà M chỉ chia cho bà 05 chỉ và nhờ bà Đ đưa cho bà. Nay bà M yêu cầu bà trả lại số vàng này bà không đồng ý vì đây là số vàng có được từ việc bán đất của cha mẹ để lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Lê Thị Đ trình bày: Bà là chị ruột của bà Lê Thị Cúc M và bà Lê Thị G. Cách đây rất lâu khoảng 20 năm bà M có gửi bà Giữ khoảng 07 chỉ vàng 24k. Lý do thời điểm đó bà M đi chữa bệnh nên nhờ bà giữ giùm. Sau đó khoảng nửa tháng bà G có đến nhà bà và hỏi mượn 05 chỉ vàng 24k. Lúc đầu bà không đồng ý đưa nhưng bà G cứ nặng lời với bà nên bà mới đưa cho bà G số vàng 05 chỉ (một chiếc nhẫn 05 chỉ 24k), việc đưa vàng cho bà G bà có nói cho bà M biết và bà M đồng ý. Tuy nhiên, do chị em trong gia đình nên không có làm biên nhận giao vàng. Khi đưa vàng bà G có nói với bà mục đích mượn vàng là mua đất, sau đó sẽ trả từ từ số vàng trên cho bà M nhưng cho đến nay bà G vẫn không trả. Nay việc bà M kiện bà G, bà thống nhất với ý kiến của bà M, đề nghị tòa án chấp nhận yêu cầu của bà M, buộc bà G trả lại cho bà M 05 chỉ vàng 24k.

Bản án dân sự sơ thẩm số 73/2020/DS-ST ngày 02/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Cúc M. Buộc bà Lê Thị G trả cho bà Lê Thị Cúc M 05 (năm) chỉ vàng 24k.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/12/2020, bị đơn – bà Lê Thị G kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc giải quyết giải quyết theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng chấp hành đúng nội qui phòng xử án và thực hiện quyền , nghĩa vụ đúng pháp luật. Xét đơn kháng cáo của bị đơn là trong thời hạn luật định nên được xem xét. Nhận thấy, bà G kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Qua nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kháng cáo của bị đơn, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” là có căn cứ.

[2] Về nội dung: Bà Lê Thị Cúc M, bà Lê Thị G và bà Lê Thị Đ là chị em ruột với nhau. Bà Lê Thị Đ là người giữ dùm của bà M 07 chỉ vàng 24kr. Vào năm 2003, được sự đồng ý của bà M nên bà Đ có đưa bà G 05 chỉ vàng 24kr. Theo bà M trình bày, đây là số vàng bà cho bà G mượn làm vốn sinh sống. Bà G thì trình bày đây là số vàng bà G được chia từ (vàng) bán đất của cha mẹ chung. Đến khi bà M đòi bà G trả lại 05 chỉ vàng 24 kr thì bà G không đồng ý trả thì phát sinh tranh chấp. Sau khi Tòa án sơ thẩm xét xử, buộc bà G trả cho bà M 05 chỉ vàng 24 kr thì bà G kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án phúc thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Thông qua bà Lê Thị Đ bà G có nhận 05 chỉ vàng 24kr của bà M do bà Đ giữ dùm là có thật, vấn đề này được các đương sự thừa nhận cho nên đây là sự kiện không cần phải chứng minh theo qui định của pháp luật. Xét lời trình bày của bị đơn Lê Thị G cho rằng, đây là số vàng bà G được chia từ tiền bán đất của cha mẹ, nhưng bà G không có chứng cứ gì để chứng minh, không được bà M thừa nhận. Đối với bà Lê Thị Đ là người giữ vàng dùm cho bà M cũng trình bày, đây là số vàng bà M cho bà G mượn, bà Đ là người đưa dùm, bà G là người nhận. Cho nên, lời trình bày của bà G là không có cơ sở để chấp nhận. Xét nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử, buộc bà G trả cho bà M 05 chỉ vàng 24 kr là có căn cứ, đúng pháp luật. Bà G kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới để chứng minh, nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bà G. Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm theo qui dịnh tại khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]Về án phí: Bà Lê Thị G thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí, nên bà G được miễn án phí dân sự phúc thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 308, và Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự; Điểm đ khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị G, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 73/2020/DS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang .

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Cúc M. Buộc bà Lê Thị G trả cho bà Lê Thị Cúc M 05 (năm) chỉ vàng 24k (loại vàng nhẫn giao dịch tại địa phương). Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí:

- Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm cho bà Lê Thị G.

- Hoàn trả lại bà Lê Thị Cúc M số tiền 500.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 20711 ngày 20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Tiền Giang.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2021/DS-PT ngày 01/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:86/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về