Bản án 86/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 86/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2020/TLST- HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn L (tên gọi khác: không), sinh năm 1988 tại xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn A và bà Vũ Thị D; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/01/2015 Bùi Văn L bị Tòa án nhân huyện N xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án về tội: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đến ngày 28/01/2016 Bùi Văn L chấp hành xong thời gian thử thách.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 27/8/2020, chuyển tạm giam ngày 31/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

2. Bùi Văn L1 (tên gọi khác: không), sinh năm 1990 tại xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn A và bà Vũ Thị D; Có vợ là Nguyễn Thị T sinh năm 1994; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 27/8/2020, chuyển tạm giam ngày 31/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Bùi Văn Kh, sinh năm 1998; Trú tại: Thôn L, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

+ Anh Vũ Đức Th, sinh năm 1982; Trú tại: Phố B, Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

+ Anh Bùi Thái Th, sinh năm 1984; Trú tại: Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

- Những người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Tsinh năm 1994; Bà Vũ Thị D sinh năm 1963. Chị T và bà D có mặt.

- Những người chứng kiến: Ông Vũ Minh T sinh năm 1957; Ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1974; Ông Trần Mạnh H sinh năm 1967; Anh Bùi Văn T, sinh năm 1981; Ông Bùi Đức Q sinh năm 1960.

Những người chứng kiến vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn L, Bùi Văn L1 đều là người nghiện ma túy, loại Heroine; Chiều ngày 25/8/2020 khi Bùi Văn L đến nhà em trai là Bùi Văn L1 chơi thì L rủ L1 góp tiền chung để đi mua Heroine về cùng sử dụng và bán cho người khác để kiếm lời thì L1 đồng ý. Bùi Văn L nói với Bùi Văn L1: “Mỗi anh em góp 1.050.000 đồng” thì L1 đưa số tiền 1.050.000 đồng cho L, L cũng góp số tiền 1.050.000 đồng được tổng số tiền là 2.100.000 đồng. Bùi Văn L cầm theo số tiền của hai anh em góp chung rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 50X1-4667 đi từ nhà L1 đến xã Văn Phú, huyện N để tìm mua Heroine. Khi đi đến khu vực chợ Sào Lâm thuộc địa phận xã Văn Phú, huyện N thì Bùi Văn L đã gặp và hỏi mua của một người nam giới (Liêm không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói Heroine được bọc bên ngoài bằng túi nilon màu trắng với giá 2.100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Bùi Văn L điều khiển xe mô tô quay lại nhà Bùi Văn L1 và nói với L1 đã mua được Heroine. Sau đó L và L1 cùng nhau đi vào phòng ngủ của nhà L1 sử dụng 02 chiếc dao lam và 01 chiếc kéo kim loại để chia nhỏ gói Heroine vừa mua được ra thành 24 gói nhỏ khác nhau và còn lại một ít Heroine chứa trong túi nilon do L và L1 chưa chia hết. Sau khi chia nhỏ số ma túy trên, Bùi Văn L1 bỏ 24 gói Heroine và 01 túi nilon có chứa Heroine vào trong 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN (nắp bằng nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN) rồi đem cất giấu tại vị trí phía dưới mái nhà tắm của nhà L1 rồi cùng nhau đi ngủ. Đến sáng ngày 26/8/2020 L, L1 mỗi người lấy 01 gói Heroine trong lọ thủy tinh màu nâu cất giấu ở phía dưới mái nhà tắm ra để sử dụng cho bản thân tại nhà Liên.

Chiều ngày 26/8/2020, Vũ Đức Th sinh năm 1982 trú tại Phố B, Thị trấn N, huyện N là người nghiện ma túy đi xe ôm đến gia đình của Bùi Văn Kh sinh năm 1998 trú tại Thôn L, xã Th, huyện N cũng là người nghiện ma túy để chơi. Sau đó Kh rủ Th mỗi người góp số tiền 100.000 đồng để đi tìm mua Heroine về sử dụng thì Thiện đồng ý và đưa cho Kh số tiền 100.000 đồng. Do đã quen biết từ trước và có số điện thoại của Bùi Văn L nên khoảng 14 giờ 30 phút chiều cùng ngày, Bùi Văn Kh sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280 gọi vào điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007 của Bùi Văn L hỏi: “Anh ơi còn không bán cho em một quả hai trăm” mục đích Khánh hỏi mua của L 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng thì L đồng ý và hẹn Khánh đến khu vực “Cầu J” ở địa phận thôn Tân Thành, xã Th, huyện N để bán ma túy. Sau khi nhận được điện thoại từ Khánh, Bùi Văn L nói với Bùi Văn Liên: “Đưa cho anh một gói ma túy để bán cho Khánh ở chỗ Cầu J” thì Bùi Văn L1 hiểu ý L nên đi ra mái nhà tắm lấy 01 gói Heroine ở trong lọ thủy tinh màu nâu đưa cho Bùi Văn L để đem ra bán cho Bùi Văn Kh. Sau đó Bùi Văn L cất giấu 01 gói Heroine trên người rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 50X1-4667 đi ra khu vực “Cầu J” thuộc đường L1 thôn Tân Thành, xã Th để gặp Khánh bán ma túy. Khi L đi đến do Bùi Văn Kh chưa đến nên L đã điều khiển xe mô tô đi qua khu vực “Cầu J” khoảng 30 mét rồi dừng lại đứng ở lề đường thôn Tân Thành, xã Th chờ Khánh đến.

Hồi 14 giờ 45 phút cùng ngày, khi Bùi Văn L đang ngồi trên xe mô tô đợi Khánh đã gặp Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã Th đang làm nhiệm vụ tuần tra đi lại gần về phía L. Do sợ cất giấu trái phép Heroine trên người nên Bùi Văn L đã ném từ trên tay phải của mình 01 gói Heroine xuống mặt đường ngay tại vị trí L đứng nhưng đã bị Tổ công tác yêu cầu nhặt lên để kiểm tra. Tổ Công tác đã lập biên bản và thu giữ của Bùi Văn L 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Bùi Văn L khai nhận đó là 01 gói Heroine của L và em trai là Bùi Văn L1 do L mang ra để bán cho Bùi Văn Kh nhằm mục đích kiếm lời. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của Bùi Văn L 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 50X1-4667 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007. Một lúc sau, Bùi Văn Kh và Vũ Đức Th thuê xe ôm đi đến khu vực “Cầu J” để gặp L đã nhìn thấy L vừa bị Tổ công tác bắt quả tang nên Khánh nói với người lái xe ôm quay trở lại sau đó Khánh và Thiện đi về nhà.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã triệu tập Bùi Văn Liên, Bùi Văn Kh và Vũ Đức Th lên làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn Liên, Bùi Văn Kh và Vũ Đức Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình nêu trên phù hợp như lời khai của Bùi Văn L. Đồng thời Bùi Văn L1 đã giao nộp cho cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme6 vỏ màu xanh lắp sim số 0984.415.006; Bùi Văn Kh đã giao nộp cho cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Văn Liên, Cơ quan điều tra thu giữ được tại vị trí xà ngang thứ 3 từ cửa nhà tắm ở phía dưới mái bờ lô xi măng gian nhà tắm của gia đình L1 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN, nắp nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN, bên trong lọ thủy tinh có chứa gồm: 10 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng ni lông màu trắng, tiếp đến là giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong đều là chất bột dạng cục màu trắng; 11 gói nhỏ bên ngoài đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong đều là chất bột dạng cục màu trắng; 01 túi ni lông màu trắng bên trong là chất bột dạng cục màu trắng; 01 giấy bạc màu trắng bị cháy xém KT(6x4,5)cm và 01 bật lửa ga màu vàng. Tất cả được đặt trên mặt nhựa màu đỏ KT(41x28)cm. Bùi Văn L1 khai nhận lọ thủy tinh chứa bên trong tổng 22 gói nhỏ có đặc điểm nêu trên là 22 gói Heroine của L1 và Bùi Văn L góp tiền chung mua về nhằm mục đích sử dụng chung, nếu có ai hỏi thì bán để kiếm lời.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Văn L, Cơ quan điều tra không phát hiện thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Đối với 02 chiếc dao lam và 01 chiếc kéo kim loại mà L, L1 dùng để chia ma túy. Quá trình điều tra L, L1 khai sau khi sử dụng không nhớ để tại vị trí nào, quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của L, L1 và quá trình điều tra Cơ quan điều tra cũng không phát hiện tìm thấy các công cụ nêu trên.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Bùi Văn L(gói 1) có khối lượng 0,06gam.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 22 gói, túi nhỏ (gồm: 10 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng ni lông màu trắng, tiếp đến là giấy màu trắng có dòng kẻ; 11 gói nhỏ bên ngoài đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ và 01 túi ni lông màu trắng) thu giữ của Bùi Văn L1(gói 2 đến gói 22 và túi 23) có khối lượng cụ thể là gói 2: 0,06gam; gói 3: 0,06gam, gói 4: 0,06gam; gói 5: 0,05gam; gói 6: 0,06gam; gói 7: 0,06gam; gói 8: 0,07gam; gói 9: 0,06gam; gói 10: 0,06gam; gói 11: 0,05gam; gói 12: 0,04gam; gói 13: 0,04gam; gói 14: 0,05gam; gói 15: 0,04gam; gói 16: 0,04gam; gói 17: 0,05gam; gói 18: 0,05gam; gói 19: 0,05gam; gói 20: 0,05gam; gói 21: 0,04gam; gói 22: 0,04gam và túi 23: 0,12gam.

Lấy khối lượng chất bột dạng cục màu trắng của gói 1 đến gói 22 và túi 23 ký hiệu lần lượt từ M1 đến M23 để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 235/KLGĐ-PC09-MT ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“- Các mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu từ M1 đến M23:…… - Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong các mẫu giám định ký hiệu từ M1 đến M23 là 1,2457 (Một phẩy hai nghìn bốn trăm năm mươi bẩy) gam.

- Các mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu từ M1 đến M23 đều là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm:

Chất bột màu trắng còn lại trong các mẫu gửi giám định ký hiệu M4, M6, M7, M8, M10, M11, M23 đều là mua túy, loại Heroine và có khối lượng như sau: M4= 0,0221gam; M6=0,0236gam; M7=0,0265gam; M8=0,0184gam; M10=0,0192gam; M11=0,0204; M23=0,0674gam; vỏ bao gói của các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M5, M9 và từ M12 đến M22 cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 235/KLGĐ-PC09-MT.

Số tài sản liên quan và vật chứng đã thu giữ gồm:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 50X1- 4667 thu giữ của Bùi Văn L, đăng ký xe mô tô mang tên Triệu Muối sinh năm 1951, địa chỉ 150 Tổ I, Ấp 3, thị trấn Thủ Đức. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã có Công văn kèm theo Quyết định ủy thác điều tra đề nghị Công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh triệu tập, xác minh để làm việc với người tên Triệu Muối. Kết quả cho thấy không có ai tên Triệu Muối như thông tin địa chỉ ghi trên giấy đăng ký xe mô tô thu giữ của Bùi Văn L trên địa bàn mà Công an quận Thủ Đức quản lý. Quá trình điều tra xác định Bùi Văn L đã mượn chiếc xe mô tô trên của anh Bùi Thái Th sinh năm 1984 trú tại Thôn Đ, xã Th, huyện N vào thời gian từ tháng 7/2020 để đi lại, anh Thượng không biết việc L sử dụng xe mô tô của mình đi mua bán ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã có Công văn đề nghị Văn Phòng Cơ quan điều tra-Công an tỉnh Ninh Bình xác minh trả lời về nguồn gốc, vật chứng đối với chiếc xe mô tô thu giữ của L. Kết quả cho thấy xe mô tô trên không phải là vật chứng của vụ án nào. Cơ quan điều tra Công an huyện N đã tách chiếc xe mô tô thu giữ của L để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme6 vỏ màu xanh lắp sim số 0984.415.006 thu giữ của Bùi Văn Liên. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại lắp sim trên là tài sản hợp pháp của L1 không liên quan đến việc phạm tội.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại chiếc điện thoại lắp sim trên cho chị Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1994 trú tại Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình (vợ của Liên) theo văn bản ủy quyền của Liên.

Đối với 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007 thu giữ của Bùi Văn L; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280 thu giữ của Bùi Văn Kh; 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN, nắp nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN, 01 mặt nhựa màu đỏ KT(41x28) cm, 01 giấy bạc màu trắng bị cháy xém KT(6x4,5)cm và 01 bật lửa ga màu vàng thu giữ của Bùi Văn Liên; 0,1976 gam Heroine và vỏ bao gói của các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M5, M9 và từ M12 đến M22 cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 235/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn L; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Liên; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Kh; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Vũ Đức Th và 01 phong bì niêm phong phong bì, vỏ gói ban đầu. Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã ra Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện N để chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N. Các bị cáo không khiếu nại gì về kết luận giám định số 235/KLGĐ-PC09-MT ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình.

Tại bản cáo trạng số 82/CT-VKSNQ-HS ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố các bị cáo Bùi Văn Lvà Bùi Văn L1 về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn L1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 1 Điều 251, Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 3 năm tù đến 3 năm 6 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/8/2020.

Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn L1 từ 2 năm 06 tháng tù đến 2 năm 9 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/8/2020.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN, nắp nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN, 01 mặt nhựa màu đỏ KT(41x28) cm, 01 giấy bạc màu trắng bị cháy xém KT(6x4,5)cm và 01 bật lửa ga màu vàng thu giữ của Bùi Văn Liên; 0,1976 gam Heroine và vỏ bao gói của các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M5, M9 và từ M12 đến M22 cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 235/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn L; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Liên; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Kh; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Vũ Đức Th và 01 phong bì niêm phong phong bì, vỏ gói ban đầu.

Tịch thu xung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007 thu giữ của Bùi Văn L bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280 thu giữ của Bùi Văn Kh bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình truy tố, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số 235/KLGĐ-PC09-MT ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định: Bùi Văn L và Bùi Văn L1 đã bàn bạc góp tiền cùng nhau mua 1 gói ma túy có giá 2.100.000 đồng về chia nhỏ thành 24 gói nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Hồi 14 giờ 45 ngày 26/8/2020, khu vực “Cầu J” thuộc địa phận đường L1 thôn Tân Thành, xã Th, huyện N. Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã Th phát hiện bắt quả tang Bùi Văn L đang cất giữ trong người 01 gói Heroine có khối lượng 0,0492 gam nhằm mục đích bán trái phép với giá 200.000 đồng cho Bùi Văn Kh. Qua khám xét nơi ở của Bùi Văn L1 lực lượng Công an còn phát hiện Bùi Văn L và Bùi Văn L1 còn cất giấu trái phép 22 gói Heroine với tổng khối lượng 1,1965 gam để nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho những người nghiện ma túy kiếm lời.

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

……………………………………………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố các bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, vai trò của từng bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, xét thấy:

Hành vi mua bán ma túy của các bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi mua bán ma túy của mình bị Nhà nước cấm. Các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ, bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp các bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Bùi Văn L giữ vai trò là người khởi xướng rủ rê lôi kéo Bùi Văn L1 thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy bị cáo L phải chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo Liên.

Trong vụ án này, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho Bùi Văn L nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Bùi Văn Kh, Vũ Đức Th góp tiền để mua ma túy của Bùi Văn L nhưng chưa mua được thì bị phát hiện nên không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích kiếm lời. Do vậy, cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 50X1- 4667 thu giữ của Bùi Văn L, đăng ký xe mô tô mang tên Triệu Muối sinh năm 1951, địa chỉ 150 Tổ I, Ấp 3, thị trấn Thủ Đức. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã có Công văn kèm theo Quyết định ủy thác điều tra đề nghị Công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh triệu tập, xác minh để làm việc với người tên Triệu Muối. Kết quả cho thấy không có ai tên Triệu Muối như thông tin địa chỉ ghi trên giấy đăng ký xe mô tô thu giữ của Bùi Văn Ltrên địa bàn mà Công an quận Thủ Đức quản lý. Quá trình điều tra xác định Bùi Văn L đã mượn chiếc xe mô tô trên của anh Bùi Thái Th sinh năm 1984 trú tại Thôn Đ, xã Th, huyện N vào thời gian từ tháng 7/2020 để đi lại, anh Thượng không biết việc L sử dụng xe mô tô của mình đi mua bán ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã có Công văn đề nghị Văn Phòng Cơ quan điều tra-Công an tỉnh Ninh Bình xác minh trả lời về nguồn gốc, vật chứng đối với chiếc xe mô tô thu giữ của L. Kết quả cho thấy xe mô tô trên không phải là vật chứng của vụ án nào. Cơ quan điều tra Công an huyện N đã tách chiếc xe mô tô thu giữ của L để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme6 vỏ màu xanh lắp sim số 0984.415.006 thu giữ của Bùi Văn Liên. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại lắp sim trên là tài sản hợp pháp của L1không liên quan đến việc phạm tội.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại chiếc điện thoại lắp sim trên cho chị Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1994 trú tại Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình (vợ của Liên) theo văn bản ủy quyền của L1là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007 thu giữ của Bùi Văn L bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280 thu giữ của Bùi Văn Kh bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật. Xét đây là những tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo cần tịch thu xung Ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN, nắp nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN, 01 mặt nhựa màu đỏ KT(41x28) cm, 01 giấy bạc màu trắng bị cháy xém KT(6x4,5)cm và 01 bật lửa ga màu vàng thu giữ của Bùi Văn Liên; 0,1976 gam Heroine và vỏ bao gói của các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M5, M9 và từ M12 đến M22 cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 235/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn L; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Liên; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Kh; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Vũ Đức Th và 01 phong bì niêm phong phong bì, vỏ gói ban đầu. Xét đây là vật nhà nước cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Do các bị cáo là người dân tộc thiều số sinh sống ở xã Th thuộc xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn L1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn L 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/8/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Bùi Văn L 10.000.000 đ (mười triệu đồng) xung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn L1 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/8/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Bùi Văn L1 10.000.000 đ (mười triệu đồng) xung ngân sách nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 lọ thủy tinh màu nâu nhãn hiệu TOTMEN, nắp nhựa màu trắng trên mặt nắp nhựa có chữ PUSH DOWN TURN CLOSE TIGHTLY TO OPEN, 01 mặt nhựa màu đỏ KT(41x28) cm, 01 giấy bạc màu trắng bị cháy xém KT(6x4,5)cm và 01 bật lửa ga màu vàng thu giữ của Bùi Văn Liên; 0,1976 gam Heroine và vỏ bao gói của các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M5, M9 và từ M12 đến M22 cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 235/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn L; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Liên; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Bùi Văn Kh; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là que thử nước tiểu của Vũ Đức Th và 01 phong bì niêm phong phong bì, vỏ gói ban đầu

- Tịch thu xung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel it 1516 Plus màu đen, bạc lắp sim số 0961.558.007 thu giữ của Bùi Văn L bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad vỏ màu đen lắp sim số 0389.193.280 thu giữ của Bùi Văn Kh bỏ trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí: Áp dụng Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo .

4. Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về