Bản án 86/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về chia tài sản thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, hợp đồng tặng cho tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 86/2019/DS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ CHIA TÀI SẢN THUỘC SỞ HỮU CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH, HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 399/TLST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2018 về “chia tài sản thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình”, “hợp đồng tặng cho tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi M, sinh năm 1960.

Địa chỉ: Khu phố X, phường Y, thành phố P.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng V, sinh năm 1961 (Giấy ủy quyền ngày 20/7/2018). Địa chỉ: Khu phố Z, phường Y, thành phố P.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đ, sinh năm: 1982 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố X, phường Y, thành phố P.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn L, sinh năm 1957.

+ Chị Nguyễn A, sinh năm 1979 + Chị Nguyễn B, sinh năm 1984 + Chị Nguyễn C, sinh năm 1991 Địa chỉ: Khu phố X, phường Y, thành phố P.

Ông Nguyễn L, chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, chị Nguyễn C ủy quyền cho: Ông Phùng V. Giấy ủy quyền ngày 11/8/2018. Ông Phùng V có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Phùng V, người đại diện của nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn L, bà Nguyễn A, bà Nguyên B, bà Nguyễn C trình bày:

Ông Nguyễn L và bà Bùi M là vợ chồng, có các con chung: Nguyễn Đ, bà Nguyễn A, bà Nguyễn B, bà Nguyễn C. Vợ chồng không có con nuôi, không có con riêng.

Chủ tịch UBND tỉnh N đã thu hồi 69,1 m2 đất của hộ gia đình ông giao cho Ban quản lý Dự án giao thông tỉnh để nâng cấp đường 7xx, do đó hộ ông L được mua thửa số 5k tờ bản đồ số 7 diện tích 100m2, giá đất là 280.000 đồng/m2, trị giá tài sản 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng) căn cứ vào Thông báo số 235/STN&MT-KH: “về việc nộp tiền sử dụng lô đất số 58 khu N”, đây là số tiền ông L và bà M thay mặt hộ gia đình đã nộp ngân sách nhà nước khi nhận đất. Hộ ông Nguyễn L đã được UBND thành phố P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành: CCxx, số vào sổ: CH xx ngày 20/09/2016 đối với thửa đất. Trên đất có tài sản là nhà ở được xây dựng từ năm 2004 và một số cây trồng do ông L và bà M tạo lập.

Nguyễn Đ, bà Nguyễn A, bà Nguyễn B đã lập gia đình và có nhà ở riêng, chỉ có Nguyễn C chưa có nhà riêng. Trong năm 2018 cả gia đình cùng họp và thống nhất cho căn nhà và đất nói trên cho Nguyễn C. Tuy nhiên, anh Nguyễn Đ không đồng ý. Do đó, bà Bùi M khởi kiện yêu cầu chia tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình cho ông L, bà và các con, phần tài sản được chia là giá trị thực tế thửa đất hiện nay trừ đi phần tiền 28.000.000 đồng bà M và ông L đã thay mặt hộ nộp vào ngân sách nhà nước. Ông L, bà M và A, B đồng ý tặng cho C phần tài sản được chia. Bà M và ông L đồng ý tặng cho C tài sản gắn liền với đất. Phần của Đ sẽ nhận bằng tiền mặt.

Nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thỏa thuận giá thửa đất là 636.000 đồng/m2 x 100 m2 = 63.600.000 đồng, căn cứ quyết định số: 106/2014/QĐ-UBND ngày 29.12.2014 của Chủ tịch UBND tỉnh N đã ban hành tại phần V quy định về “Bảng giá đất …..” mục 84 quy định vị trí “Đường nội bộ bên trong khu vực nhà máy rượu vang nho”. Họ đều không yêu cầu định giá tài sản.

Đối với bị đơn: Bị đơn vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết, thủ tục tống đạt cho bị đơn hoàn toàn hợp lệ.

Tòa án nhân dân thành phố P đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ tài sản vào ngày 12/7/2019, thửa đất có diện tích 100 m2, trên đất có nhà ở, nhà vệ sinh và một số cây trồng.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “chia tài sản thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, hợp đồng tặng cho tài sản”.

Tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình ông Nguyễn L là thửa số số 5k tờ bản đồ số 7 phường Y, diện tích 100m2, hộ ông Nguyễn L đã được Ủy ban nhân dân thành phố P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành: CC xx, số vào sổ: CH xx ngày 20.09.2016. Nay bà Bùi M yêu cầu chia quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hộ gia đình là có căn cứ.

Các thành viên trong hộ gồm có: Ông Nguyễn L, bà Bùi M và anh Nguyễn Đ, chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, chị Nguyễn C, tất cả là 6 người. Trị giá đất hiện nay là 63.600.000 đồng, trừ đi số tiền 28.000.000 đồng bà M và ông L đã nộp ngân sách nhà nước để có quyền sử dụng thửa đất, số tiền còn lại là 35.600.000 đồng chia cho 6 phần, mỗi thành viên trong hộ nhận 5.933.000 đồng.

Các thành viên trong hộ bao gồm ông Nguyễn L, bà Bùi M và chị Nguyễn A, chị Nguyễn B đồng ý tặng cho phần của mình được hưởng cho chị Nguyễn C và đề nghị chị C nhận đất, chị C chấp nhận. Ngoài ra, ông Nguyễn L, bà Bùi M đồng ý tặng cho tài sản gắn liền với đất bao gồm căn nhà cấp 4 và các tài sản khác cho chị C, chị C đồng ý. Sự thỏa thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Như vậy chị Nguyễn C được quyền sử dụng thửa số số 5k tờ bản đồ số 7 phường Y, diện tích 100m2 và có quyền sở hữu nhà ở cùng các tài sản khác gắn liền với đất. Chị Nguyễn C có nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh Nguyễn Đ 5.933.000 đồng.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Nguyễn C phải chịu án phí 29.667.000 đồng x 5% = 1.483.000 đồng. Anh Nguyễn Đ phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 2, khoản 3, khoản 9 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự, điều 212, điều 219, điều 457 Bộ luật Dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chia tài sản chung của hộ gia đình là thửa đất số 5k tờ bản đồ số 7 phường Y.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông Nguyễn L, bà Bùi M và chị Nguyễn A, chị Nguyễn B tặng cho phần tài sản được chia cho chị Nguyễn C. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn L và bà Bùi M đồng ý tặng cho nhà ở và tài sản gắn liền thửa đất cho chị Nguyễn C. Chị Nguyễn C được chia tài sản chung và nhận tặng cho phần tài sản của ông Nguyễn L, bà Bùi M và chị Nguyễn A, chị Nguyễn B.

Chị Nguyễn C được nhận và có quyền sử dụng thửa đất số 5k tờ bản đồ số 7 phường Y, có quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền thửa đất, tọa lạc tại khu phố X, phường Y Tứ cận thửa đất: ……………………..

Chị Nguyễn C có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện trình tự thủ tục đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn C có nghĩa vụ hoàn trả cho anh Nguyễn Đ 5.933.000 (năm triệu chín trăm ba mươi ba ngàn) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Chị Nguyễn C phải chịu án phí 1.483.000 đồng. Anh Nguyễn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng. Hoàn lại 300.000 đồng tạm ứng án phí cho bà Bùi M theo biên lai số 0017xxx ngày 07/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

387
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về chia tài sản thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, hợp đồng tặng cho tài sản

Số hiệu:86/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về