Bản án 86/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 86/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; Tòa án nhân dân huyện NP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2018/TLST - HS, ngày 15 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2018/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chớ A T; Tên gọi khác: Chớ Páo C; Giới tính: Nam; Sinh năm 1968, tại huyện MC, Điện Biên; Nơi cư trú: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hóa: Không; Bố đẻ: Chớ Nhè H (Đã chết); Mẹ đẻ: Hồ Thị S

- Sinh năm: 1938, hiện đang trú tại: Bản M 2, xã M , huyện MC, tỉnh Điện Biên; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ: Hồ Thị A - Sinh năm 1971, hiện trú tại: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Bị cáo có 04 con, con lớn nhất 24 tuổi, con nhỏ nhất 08 tuổi; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện MC, từ nhỏ không được ăn học, sau đó lấy vợ và làm ăn sinh sống tại bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Ngày 19/6/2018 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ 19/6/2018, sau đó bị tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hồ Thị A – Sinh năm 1971. Địa chỉ: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

2. Ông Vừ Sính B – Sinh năm 1973. Địa chỉ: Bản HC 1, xã M, huyện MC,

tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 04 giờ 30 phút, ngày 19/6/2018, tổ công tác Đồn Biên Phòng SPP đang làm nhiệm vụ tại bản L 1, xã SPP, huyện NP, tỉnh Điện Biên thì phát hiện một người đàn ông mặc quần áo màu đen đang khiển xe máy nhãn hiệu WaVe RSX màu đỏ đen đi theo trục đường từ Km 34 hướng về tổ công tác có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tổ công tác ra tín hiệu yêu cầu đối tượng dừng xe để kiểm tra, thì phát hiện đối tượng thả từ tay trái xuống đất 01 (Một) gói nhỏ nilon màu xanh. Sau khi khống chế được đối tượng tổ công tác đã yêu cầu đối tượng nhặt gói nilon màu xanh lên. Qua kiểm tra đối tượng khai tên Chớ A T và tiến hành thu giữ 01 gói nilon màu xanh trên tay trái của T. Quá trình kiểm tra gói nilon màu xanh, mở ra bên trong có 01 gói nilon màu trắng, mở ra bên trong có 07 (bảy) gói nhỏ nilon màu trắng: Bên trong 06 gói nilon màu trắng có chứa chất bột dạng nén, có màu trắng đục nghi là Heroine. Gói nilon màu trắng còn lại mở ra bên trong có 09 (Chín) viên nén màu hồng hình trụ tròn, trên mỗi viên có ký hiệu WY.

Chớ A T khai nhận toàn bộ số vật chứng mà tổ công tác thu giữ bên trong chứa heroine và methamphetamine là của T, mua về với mục đích để sử dụng. Nguồn gốc của số ma túy trên do Chớ A T mua tại khu vực mốc 66 thuộc khu vực bản Đề Pua, xã Phìn Hồ, huyện NP, tỉnh Điện Biên của một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết với giá 5.200.000đ (Năm triệu hai trăm nghìn đồng).

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ của T: 01 (Một) điện thoại màu đen hiệu Masstel đã qua sử dụng; 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Chớ A T số 0006472; 01 xe máy nhãn hiệu HonDa – WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC 5244DY059746, số máy: 6091293 xe đã cũ, đã qua sử dụng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa:

- Bị cáo Chớ A T khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố; hành vi của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Các vấn đề khác:

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 20/6/2018 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP xác định: Khối lượng 06 gói vật chứng thu giữ của Chớ A T nghi là Heroine có tổng khối lượng là 19,64 g (Mười chín phẩy sáu mươi tư gam), đã trích 1,1g (Một phẩy một gam) làm mẫu vật gửi giám định; Khối lượng 01 gói vật chứng còn lại nghi ma túy

tổng hợp là 0,98 g (Không phẩy chín mươi sáu gam), đã trích 0,23g (Không phẩy hai mươi ba gam) làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 639/GĐ-PC54 ngày 09/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

06 (Sáu) mẫu chất bột màu trắng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Chớ A T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Khối lượng vật chứng thu giữ của T là 19,64g Heroine

Mẫu viên nén màu hồng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Chớ A T là chất ma túy, loại Methamphetamine; Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Khối lượng vật chứng thu giữ của T là 0,98g Methamphetamine.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 65/CT-VKSNP ngày 14/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện NP để xét xử bị cáo Chớ A T có lý lịch nêu trên về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Chớ A T (Tên gọi khác: Chớ Páo C) từ 08 (Tám) năm đến 08 (Tám) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015 đối với bị cáo;

Vật chứng: Áp dụng Khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 213, Điều 218, Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015.

* Tịch thu tiêu hủy:

- Tịch thu tiêu hủy 19,64gam heroine là vật chứng của vụ án (Đã trích 1,1gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 18,54 gam) và 0,98gam Methamphetamine là vật chứng của vụ án (Đã trích 0,23 gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 0,75 gam) cùng được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên.

- 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Chớ A T số 0006472.

* Tịch thu bán hóa giá, sung ngân sách Nhà nước:

- 01 (Một) điện thoại màu đen hiệu Masstel đã qua sử dụng.

- ½ Giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa - WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC 5244DY059746, số máy: 6091293 sau khi bán đấu giá.

*Trả lại cho Bà Hồ Thị A, sinh năm 1971 (Vợ của bị cáo Chớ A T). Địa chỉ: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa

- WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC5244DY059746, số máy: 6091293 thu giữ của Chớ A T sau khi bán đấu giá.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T do bị cáo là người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ

Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng trong vụ án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Của Cơ quan điều tra Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào hồi 04 giờ 30 phút ngày 19/6/2018 tại Bản L

1, xã SPP, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Chớ A T đã thực hiện hành vi tàng trữ 19,64gam heroine và 0,98 gam methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Xét thấy hành vi tàng trữ hai loại ma túy nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này;”

Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự vì vậy VKSND huyện NP, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo theo điều, khoản đã viện dẫn ở trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan, sai.

[3] Xét tính chất, vai trò của bị cáo trong vụ án:

Hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án này mang tính chất rất nghiêm trọng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song vì mục đích sử dụng cho bản thân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 19,64gam heroine và 0,98 gam methamphetamine. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, đối với bị cáo cần phải xử phạt thật nghiêm khắc nhằm đáp ứng yêu cầu trừng trị, răn đe, đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này nói chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Bị cáo Chớ A T là người dân tộc thiểu số. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện MC, từ nhỏ không được ăn học, sau đó lấy vợ và làm ăn sinh sống tại bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Ngày 19/6/2018 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội, để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có thể giúp bị cáo nhận thức thêm tác hại của ma túy và cái giá phải trả cho việc tàng trữ trái phép chất ma túy thì mới giúp bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Căn cứ Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2018 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên và Chi cục Thi hành Dân sự huyện NP, tỉnh Điện Biên; Hội đồng xét xử sẽ xem xét xử lý vật chứng theo quy định pháp luật:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo Chớ A T để tiêu hủy.

- Tịch thu tiêu hủy giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 00006472 mang tên Chớ A T.

- Căn cứ vào Điều 213, Điều 218, Điều 219 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung của vợ chồng, tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa – WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC5244DY059746, số máy: 6091293 xe đã cũ, đã qua sử dụng sau khi bán đấu giá. Trả lại cho Bà Hồ Thị A, sinh năm 1971 (Vợ của bị cáo Chớ A T). Địa chỉ: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên ½ giá trị chiếc xe máy trên.

[7] Các vấn đề khác:

T khai mua ma túy của một người đàn ông dân tộc Thái nhưng không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ và xử lý. Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xét miễn án phí HSST cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, HĐXX xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST theo quy định.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố: Bị cáo Chớ A T (Tên gọi khác: Chớ Páo C) phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]. Áp dụng: Điểm n Khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Chớ A T: 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (19/6/2018).

[3]. Vật chứng: Áp dụng Khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 213, Điều 218, Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015.

* Tịch thu tiêu hủy:

- Tịch thu tiêu hủy 19,64gam heroine là vật chứng của vụ án (Đã trích 1,1gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 18,54 gam) và 0,98gam Methamphetamine là vật chứng của vụ án (Đã trích 0,23 gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 0,75 gam) cùng được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên.

- 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Chớ A T số 0006472.

* Tịch thu bán hóa giá, sung ngân sách Nhà nước:

- 01 (Một) điện thoại màu đen hiệu Masstel đã qua sử dụng.

- ½ Giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa - WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC5244DY059746, số máy: 6091293 sau khi bán đấu giá. Xe cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho Bà Hồ Thị A, sinh năm 1971 (Vợ của bị cáo Chớ A T). Địa chỉ: Bản M 2, xã M, huyện MC, tỉnh Điện Biên ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa - WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC5244DY059746, số máy: 6091293 thu giữ của Chớ A T sau khi bán đấu giá.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện NP, tỉnh Điện Biên).

[4]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016: Bị cáo Chớ A T (Chớ Páo C) được miễn án phí HSST theo quy định.

Kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật, vợ của bị cáo Chớ A T là bà Hồ Thị A có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án trả lại cho bà ½ giá trị chiếc xe máy chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa - WaVe RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27V1-058.14, số khung: RLHJC5244DY059746, số máy: 6091293 sau khi bán đấu giá.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[5]. Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 BLTTHS năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về