TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 86/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 11 tháng 10 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 234/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2018/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2018; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị L, sinh năm: 1986. (Có mặt)
HKTT: Ấp 2B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Chỗ ở: Ấp 4 B, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bị đơn: Ông Trần Đăng L, sinh năm: 1984. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 2B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/5/2018, bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Bà Đỗ Thị L trình bày:
Bà L xây dựng gia đình với ông Trần Đăng L vào năm 2004 có đăng ký kết hôn tại UBND xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hôn nhân là trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới bà L và ông L có tìm hiểu nhau một thời gian.
Sau khi cưới thì bà L và ông L được ra riêng và sống tại ấp 2B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ khi về sống chung thì cuộc sống chung giữa bà L và ông L không hạnh phúc thường xảy ra xích mích, cãi vã, do bất đồng quan điểm, ông L không có lập trường cứ nghe người ngoài nói gì là về kiếm chuyện đánh đập vợ con, nhưng vì con cái bà L vẫn cố nhẫn nhịn để chung sống. Sự chịu đựng của bà L có hạn, bà L đã cho ông L rất nhiều cơ hội và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng ông L vẫn không có gì thay đổi. Ngoài ra ông L còn ham chơi cờ bạc, không lo làm ăn, từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Từ đầu năm 2018 đến nay bà L và ông L ly thân, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài nên bà L yêu cầu được ly hôn với ông L.
- Về con chung: Bà L và ông L có 03 con chung tên Trần Thị Thùy L, sinh ngày 03/02/2004; Trần Thị Phúc L, sinh ngày 08/5/2007; Trần Thị Kim L, sinh ngày 19/7/2012, hiện các con đang sống với bà L. Bà L yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung và tự nguyện không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà L và ông L tự thoả thuận giải quyết, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tòa án đã triệu tập ông Trần Đăng L đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông L vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông L đều vắng mặt không có lý do.
Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
Quan hệ tranh chấp: Bà Đỗ Thị L yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Trần Đăng L, đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Trần Đăng L có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM.
Trong quá trình tham gia tố tụng, ông Trần Đăng L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông L vắng mặt không có lý do, vì vậy việc xét xử vắng mặt ông L là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông L xây dựng gia đình vào năm 2004 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2004 (Giấy chứng nhận kết hôn số 152 quyển số 01/2004 ngày 18/3/2004 tại UBND xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Cuộc sống chung giữa bà L và ông L không hạnh phúc thường xảy ra xích mích, cãi vã, do bất đồng quan điểm, ông L không có lập trường cứ nghe người ngoài nói gì là về kiếm chuyện đánh đập vợ con, nhưng vì con cái bà L vẫn cố nhẫn nhịn để chung sống. Sự chịu đựng của bà L có hạn, bà L đã cho ông L rất nhiều cơ hội và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng ông L vẫn không có gì thay đổi. Ngoài ra ông L còn ham chơi cờ bạc, không lo làm ăn, từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Từ đầu năm 2018 đến nay bà L và ông L ly thân, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.
Kết quả xác minh tại địa phương nơi bà L và ông L sinh sống thì: Nguyên nhân mâu thuẫngiữa bà L và ông L địa phương không rõ do không hòa giải ở cơ sở nhưng bà L và ông L không chung sống với nhau đã lâu, mạnh ai nấy sống.
Xét lời khai của bà L phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án, xét yêu cầu của bà L cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà L và ông L phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng từ đầu năm 2018 đến nay bà L và ông L ly thân, mạnh ai nấy sống, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Sau khi bà L gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông L vắng mặt không lý do, không thể hiện có thiện chí hòa giải.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà L và ông L thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứkhoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L đối với ông L.
[3] Về con chung: Bà L và ông L có 03 con chung tên Trần Thị Thùy L, sinh ngày 03/02/2004; Trần Thị Phúc L, sinh ngày 08/5/2007; Trần Thị Kim L, sinh ngày 19/7/2012, hiện các con đang sống với bà L. Bà L yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung và tự nguyện không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.
Xét yêu cầu của bà L cho thấy, từ khi bà L nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay ông L không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà L có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Qua xem xét ý kiến của con chung là cháu L và cháu L cho thấy các cháu có nguyện vọng ở với bà L, nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung chưa thành niên, giao cháu L và cháu L cho bà L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà L không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của bà L nên được chấp nhận.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51,56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị L được ly hôn với ông Trần Đăng L.
2. Về con chung: Bà L và ông L có 03 con chung tên Trần Thị Thùy L, sinh ngày 03/02/2004; Trần Thị Phúc L, sinh ngày 08/5/2007; Trần Thị Kim L, sinh ngày 19/7/2012. Bà L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung. Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con.
Ông Trần Đăng L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.
4. Về án phí: Bà Đỗ Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001646 ngày 25/5/2018 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện XM. Bà L đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kề từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 86/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 86/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về