Bản án 86/2017/HSST ngày 10/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2017/HSST NGÀY 10/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10  tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2017/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Phạm Văn M, sinh năm 1977.

- Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ T, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12. Con ông Phạm Văn H, sinh năm 1950 và bà Phạm Thị P, sinh năm 1950. Có vợ là: Trịnh Thị Q, sinh năm 1979. Bị cáo có 01 con, sinh năm 2001. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 11/12, sau đó ở nhà lao động tự do. Năm 1995 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 1997 xuất ngũ trở về địa phương. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2003. Năm 2011 bị đưa đi cơ sở chữa bệnh thời hạn 12 tháng theo Quyết định số 67 ngày 14/01/2011 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện V.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/8/2017 đến ngày 26/8/2017 chuyển tạm giam. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ  30 phút  ngày 23/8/2017, Phạm Văn M điều khiển xe môtô nhãn hiệu LONCIN XIONGSHI, màu nâu, biển số đăng ký 29N2- xxxx đi từ nhà sang khu vực Quán C, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định tìm mua Hêrôin để sử dụng cho bản thân. Tại đây, M gặp và mua 02 gói Hêrôin của một người đàn ông khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ cụ thể với giá 200.000 đồng. Sau đó M bỏ 02 gói Hêrôin vừa mua được vào trong túi quần rồi điều khiển xe mô tô đi về Thái Bình. Khi đi đến cầu T, M điều khiển xe mô tô đi sang đường 10B đến khu vực gần nhà máy may Maxport, thôn Đ, xã T, huyện Vũ Thư, M  lấy  01 gói Hêrôin vừa mua được ra chia thành 02 gói rồi cho tất cả vào trong túi quần phía sau, bên phải. Sau đó, M tiếp tục điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ sử dụng. Đến khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi M đi đến khu vực đường tránh S1 quốc lộ 10 thuộc địa phận thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện V  phát hiện bắt quả tang. Lực lượng Công an tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi quần dài phía sau, bên phải M đang mặc 03 gói Hêrôin có trọng lượng 0,3305 gam, trong đó có 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu vàng, 01 gói được gói bằng giấy màu vàng in chữ và 01 gói được gói bằng hai lớp, lớp ngoài bằng nilon màu hồng, lớp trong bằng giấy tráng kim màu vàng. Ngoài ra còn quản lý của M chiếc xe môtô nhãn hiệu LONCIN XIONGSHI, màu nâu, biển số đăng ký 29N2-xxxx, 01 lưỡi dao lam và 01 ví giả da màu đen.

Kết luận giám định số 346/KLGĐ- PC 54 ngày 23/8/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “03 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Phạm Văn M gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3305  gam (Không phẩy ba nghìn ba trăm linh năm gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ”

Bản cáo trạng số 84/KSĐT ngày 16/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Phạm Văn M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt : Phạm Văn M mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu số Hêrôin thu của Phạm Văn M sau giám định hoàn lại còn 0,3195 gam trong bao niêm phong số 346/KLGĐ-PC54 và 01 lưỡi dao lam là vật chứng của vụ án, đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V  ngày 18/10/2017 để tiêu huỷ. 01 ví giả da màu đen đã cũ không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện V lập hồi 10 giờ ngày 23/8/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình.

- Biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện V lập hồi 11 giờ 35 phút ngày 23/8/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình.

- Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng là anh Trần Minh P, sinh năm 1970, trú tại thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình;  anh Hoàng Quốc D, sinh nă 1972 trú tại thôn H, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình.

- Kết luận giám định số 346/KLGĐ- PC 54 ngày 23/8/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “03 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Phạm Văn M  gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3305  gam (Không phẩy ba nghìn ba trăm linh năm gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ”

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 0,3305 gam Hêrôin để sử dụng cho bản thân của Phạm Văn M đã phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Điều luật quy định như sau:

Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm.

......

5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:  “Tội tàng trữ  trái phép chất ma tuý ”

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c,  Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

So với quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS 1999 thì quy định tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi hơn cho người phạm tội nên cần áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm hình phạt cho bị cáo. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định này.

[3]  Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ Hêrôin  có trọng lượng 0,3305gam của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội.

Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào thoát ra ngoài vùng xoáy khủng khiếp của nó để tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn bán ma túy gây ra. Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt kiệt nhân lực tài chính, hủy diệt nh ững tiềm năng quý báu mà lẽ ra phải được huy động cho phát triển kinh tế - xã hội để đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người. Chính ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội… Nghiêm trọng hơn ma túy là tác nhân của căn bệnh thế kỷ HIV, AIDS 

[4]  Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo:

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xét đến nhân thân của bị cáo thì thấy: bị cáo có nhân thân xấu.

Là người đàn ông trưởng thành lẽ ra bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy thì phải tránh xa loại tệ nạn này, song để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Đây là hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo khai báo thành khẩn. Mặt khác bị cáo đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự, có đóng góp nhất định trong sự nghiệp xây dựng và bảo về tổ quốc. Do vậy nên áp dụng điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo cũng là thể hiện sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ , tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: cần phải xử lý nghiêm khắc, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm .

* Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Bị cáo Phạm Văn M mua ma túy về sử dụng cho bản thân chứ không nhằm mục đích kiếm lời. Bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định. Do vậy Hội đồng xét xử  không  áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- Đối với số Hêrôin của Phạm Văn M sau giám định hoàn lại còn 0,3195gam và bao gói trong bao niêm phong số 346/KLGĐ-PC54 ; 01 lưỡi dao lam đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 18/10/2017  là vật chứng của vụ án nên tịch thu để tiêu huỷ.

- 01 ví giả da màu đen đã cũ, không liên quan đến việc phạm tội. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo từ chối không nhận lại vì không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với người người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực Quán C, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định.Quá trình điều tra không xác định được con người cụ thể đã bán Herôin cho M.Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

- Đối với xe môtô nhãn hiệu LONCIN XIONGSHI, màu nâu, biển số đăng ký 29N2-xxxx, Phạm Văn M khai mua của anh Phạm Đức C, sinh năm 1979, trú tại thôn L, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình với giá 2.000.000 đồng vào khoảng năm 2014. Khi mua,  xe có giấy đăng ký xe nhưng không có giấy mua bán xe. Qúa trình điều tra xác định xe mô tô trên đăng ký mang tên Bùi Văn T, địa chỉ: Dãy 1.6, khu tập thể Đoàn nghệ thuật Tổng cục hậu cần, phường X, quận B, thành phố Hà Nội nhưng hiện tại không có ai tên là Bùi Văn T đang sinh sống tại địa chỉ trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tách ra tiếp tục điều tra xác minh khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có 15 ngày kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:  Bị cáo Phạm Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1,2  Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Phạm Văn M 02(hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/8/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định.

2. Về vật chứng, xử lý vật chứng : ¸p dụng  Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu số Hêrôin thu của Phạm Văn M sau giám định hoàn lại còn 0,3195gam và bao gói trong bao niêm phong số 346/KLGĐ-PC54; 01 lưỡi dao lam là vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 18/10/2017 để tiêu huỷ.

- 01 ví giả da màu đen đã cũ không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

3. Án phí: Áp dụng khoản 1, 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức  thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Phạm Văn M phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Án xử công khai, sơ thẩm. Có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2017/HSST ngày 10/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:86/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về