Bản án 86/2017/HSPT ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 87/2017/HSST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2017/HSPT ngày 18/8/2017 đối với bị cáo Phạm Đình Tr do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 50/2017/HS-ST ngày 11/07/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng.

Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: Phạm Đình Tr, sinh năm 1996 tại Lâm Đồng; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn PL, xã PT, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông: Phạm Văn Th, sinh năm 1969; Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1971; Hiện làm nông và sống tại thôn PL, xã PT, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng; Vợ: Phan Quỳnh Nh, sinh năm 1997; Con: Có 01 con sinh ngày 05/9/2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/12/2016 đến ngày 21/02/2017 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng thì nội dung vụ án như sau:

Vào khoảng tháng 7/2016, Phạm Đình Tr đến cửa hàng mua bán xe máy múc của ông Nguyễn Tấn L để mua một xe máy múc hiệu Komasu PC30 để ở bãi xe cách nhà ông L khoảng 100m, sau khi thỏa thuận hai bên thống nhất mua bán chiếc xe trên giá là 190.000.000 đồng, Tr đưa tiền đặt cọc trước 3.000.000đồng. Sau khi về nhà Tr nói với bố là ông Phạm Văn Th mượn tiền mua xe, ông Th không cho mượn tiền nên Tr không có tiền mua chiếc xe trên.

Vì đang là thời điểm múc đất cà phê, nên Tr nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe trên của ông L để múc đất lấy tiền tiêu xài. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 01/8/2016, Tr thuê 01 chiếc xe hiệu Kia loại 1,4 tấn biển số: 49C-12.027 của anh Hoàng Thanh B để chở xe máy múc với giá thỏa thuận 500.000 đồng. Sau đó Tr đi cùng xe với B, đến nơi Tr đã lén lút vào khu để xe ở bãi xe của cửa hàng mua bán xe máy múc của ông Nguyễn Tấn L, Tr sử dụng chìa khóa đã lấy trước khi thỏa thuận mua bán, nổ máy xe máy hiệu Kamasu PC30 đưa lên xe tải 1,4 tấn chở về xã ĐR, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, đưa vào nhà ông Lê Ngọc T. Khi được thuê chở xe máy múc và cho Tr gửi xe máy múc B và T không biết chiếc xe máy múc là do Tr trộm cắp. Sau đó Tr đi xe máy về nhà ở thôn PL, xã PT, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng rồi thuê một chiếc xe tải 2,5 tấn của anh Lò Phước Th1 với giá 1.200.000 đồng để chở xe máy múc từ nhà T vào xã PT, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng. Sau đó Tr đưa xe đến nhà ông T1 ở thôn P, xã PT, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng để đào hố cà phê. Đến ngày 09/8/2016 ông L phát hiện việc mất chiếc xe múc trên và phát hiện Tr là người lấy chiếc xe máy múc của mình nên báo với Công an thu giữ chiếc xe trên, Tr bỏ trốn.

Sau khi bị cơ quan điều tra triệu tập làm việc, tại cơ quan Cảnh sát điều tra bị cáo Phạm Đình Tr đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc nêu trên.

Kết luận của Hội đồng định giá tài sản số 27 ngày 18/8/2016 xác định chiếc xe máy múc mà Phạm Đình Tr trộm cắp trị giá 135.000.000 đồng (Một trăm ba mươi lăm triệu đồng).

Vật chứng của vụ án: Là 01 chiếc xe máy múc hiệu Komasu PC30. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Tấn L, ông L đã nhận lại tài sản là chiếc xe trên và không có yêu cầu gì thêm.

Bản án số 50/2017/HS-ST ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng tuyên bố bị cáo Phạm Đình Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Đình Tr 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án. Được trừ vào thời gian tạm giam, tạm giữ kể từ ngày 21/12/2016 đến ngày 21/02/2017.

Bản án còn tuyên án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Ngày 21/7/2017 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.

Ngày 22/9/2017 người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày: Bị cáo có mua của ông L một xe máy múc nhỏ, trong quá trình múc đất không đáp ứng được yêu cầu của người thuê nên bị cáo có bàn với gia đình bán máy múc này và vay thêm tiền để mua máy múc lớn hơn nên bị cáo có ra cửa hàng của ông L thấy có một máy múc lớn, bị cáo đồng ý mua máy múc lớn này và đặc cọc cho ông L 3.000.000đ hẹn từ 10 ngày đến 01 tháng sẽ giao đủ tiền và lấy máy, ông L đã giao chìa khóa xe cho bị cáo, sau đó bị cáo có nhận múc đất cho một số người dân ở D và LH nhưng lại chưa bán được máy cũ, chưa vay được tiền nên bị cáo nảy sinh trộm chiếc máy múc của ông L để đi múc đất, bị cáo ước tính nếu múc xong thì bị cáo sẽ nhận được khoảng 30.000.000đ đến 40.000.000đ thì có tiền trả một phần cho ông L nhưng mới múc được hai ngày thì bị phát hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo với lý do bị cáo trộm cắp tài sản với mục đích là để bỏ công sức ra lao động đi múc đất thuê, không phải là thanh niên hư hỏng, đua đòi, mục đích trộm cắp cũng không phải đem bán để có tiền tiêu xài, bị cáo là người lao động nghèo, khai báo thành khẩn, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã thu hồi trả lại người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có địa chỉ cụ thể, đề nghị áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Ngày 01/8/2016 bị cáo Phạm Đình Tr lén lút vào khu bãi để xe của ông Nguyễn Tấn L trộm chiếc xe máy múc hiệu Kamasu PC30. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn thể hiện sự coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 135.000.000 đồng nên cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn, là người lao động thuần túy, mục đích trộm cắp để lao động đi múc đất chứ không phải trộm cắp bán tài sản để ăn chơi tiêu xài, nhận thức pháp luật đơn giản, tài sản đã thu hồi trả lại người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo có địa chỉ rõ ràng, việc cho bị cáo được hưởng án treo không ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do vậy, chấp nhận một phần kháng cáo.

Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Đình Tr, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 50/HS-ST ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng về biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo Phạm Đình Tr.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Đình Tr 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Phạm Đình Tr cho Ủy ban nhân dân xã PT, huyện LH giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

2. Về án phí: Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Đình Tr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2017/HSPT ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:86/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về