Bản án 85/2020/HS-PT ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 85/2020/HS-PT NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 110/2020/TLPT-HS, ngày 29 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo Lê Thành Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 của Tòa án nhân dân thị xã BM, tỉnh Vĩnh Long.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thành Q, sinh năm 1996 tại BM, Vĩnh Long; Nơi cư trú: Tổ 43, khóm 1, phường CV, thị xã BM, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công T và bà Huỳnh Thị L; bị cáo chưa có vợ con; anh chị em ruột có tất cả 02 người; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/02/2020 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Lê Phan Hoàng D - Công ty luật TNHH MTV Cữu Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ ngày 11/02/2020 lực lượng Công an thị xã BM kết hợp với Công an phường Cái Vồn đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 7, khóm 2, phường Cái Vồn, thị xã BM, tỉnh Vĩnh Long phát hiện Lê Thành Q đang ngồi trên đường có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy nên kiểm tra, Q thừa nhận đang tàng trữ trái phép chất ma túy và tự nguyện lấy 01 bịch nilong được hàn kín bên trong bịch nilong có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi là chất ma túy) ở bên trong hộp nhựa màu đen được để trong túi xách màu xanh của Lê Thành Q đang đeo trên lưng giao nộp. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Thành Q về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm có:

- 01 (một) bịch nilong được hàn kín bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi là chất ma túy) thu bên trong hộp nhựa màu đen để trong túi xách màu xanh của Q đang đeo trên lưng được niêm phong trong bao thư, bên ngoài bao thư có chữ ký xác nhận của Q, điều tra viên Lê Quốc Cường, cán bộ niêm phong Đặng Vũ Linh, ông Huỳnh Trung Phong - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Cái Vồn là người chứng kiến niêm phong.

- 01 (một) túi xách màu xanh bên trong có: 01 hộp quẹt gas và 01 hộp nhựa màu đen bên trong có chứa: 01 ống thủy tinh, 01 đoạn ống nhựa một đầu nhọn, 01 cây kéo bằng kim loại. Túi xách màu xanh được thu khi Q đang đeo trên lưng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ có số IMEI 1: 869604030385693, số IMEI 2: 869604030385685; số sim 1: 0777.824849; số sim 2: 0918.349.100, được thu trong túi quần phía trước bên trái của Q đang mặc trên người.

- 01 (một) cái bóp màu nâu bên trong có số tiền 1.800.000 đồng được thu trong người của Q.

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 64F4 - 3341 thu tại nơi bắt Q.

Cơ quan điều tra tiến hành đưa Lê Thành Q đến trung tâm y tế thị xã BM để xét nghiệm chất ma túy, kết quả dương tính với chất ma túy loại Methamphetamine.

Căn cứ vào kết luận giám định số 67/KLGĐ-PC09 ngày 14/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: “Mẫu tinh thể rn màu trắng bên trong 01 bịch nilong được niêm phong trong bao thư gửi giám định là ma y, có khối lượng 0,3876 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra đã xác định: Lê Thành Q sử dụng trái phép chất ma túy loại Methamphetamine (ma túy đá) từ năm 2018, chất ma túy mà Q sử dụng là do Q mua của một người bán trên mạng Zalo có tên là Long ở khu công nghiệp Hòa Phú thuộc huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 2018 đến ngày Q bị bắt đã mua ma túy đá của L được 20 lần mỗi lần 01 bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng trước cổng khu Công nghiệp Hòa Phú. Sau những lần mua ma túy của L, Q đã xóa tin nhắn nói chuyện với L, L không có nói họ tên, địa chỉ nhà của L cho Q biết. Ngày 10/2/2020 Q muốn sử dụng ma túy nên đã vào ứng dụng Zalo trên điện thoại di động của mình vào phần “tìm quanh đây” để tìm tài khoản của L rồi nhắn tin hỏi mua ma túy đá của L với số tiền 500.000 đồng, L đồng ý bán ma túy đá cho Q rồi hẹn địa điểm để bán ma túy cho Q là trước cổng khu Công nghiệp Hòa Phú, L kêu Q để tiền ở chân cột điện gần cổng khu Công nghiệp Hòa Phú rồi nhắn tin đặc điểm mà nơi Q đã để tiền cho L biết sau đó L kêu Q đi ra xa nơi Q đã để tiền, khi L lấy được tiền thì L nhắn tin cho Q biết nơi mà L đã cất giấu ma túy để Q tự đến lấy ma túy. Sau khi mua ma túy đá của L, Q điều khiển xe mô tô 64F4 - 3341 trên xe có chở theo một con chó đi về nhà người anh phường Cái Vồn, thị xã BM, tỉnh Vĩnh L, khi đến khu vực tổ 7, khóm 2, phường Cái Vồn, thị xã BM, tỉnh Vĩnh L xảy ra va quẹt với một xe khác làm con chó chạy mất, Q tìm kiếm nhưng không thấy, Q điều khiển xe về chỗ làm thuê tại khu công nghiệp Hòa Phú, Đến khoảng 22 giờ ngày 10/2/2020 Q lấy một phần ma túy đá mua của L ra hút, sau khi sử dụng ma túy đá xong Q để phần ma túy còn lại, 01 ống thủy tinh, 01 đoạn ống nhựa một đầu nhọn, 01 cây kéo bằng kim loại vào trong hộp nhựa màu đen, 01 hột quẹt gas vào túi xách màu xanh của Q. Đến khoảng 8 giờ 30 phút ngày 11/2/2020 Q điều khiển xe mô tô 64 F4 - 3341 đến khu vực tổ 7, khóm 2, phường Cái Vồn, thị xã BM, tỉnh Vĩnh L để tìm con chó của Q bị thất lạc nhưng không tìm thấy. Đến 10 giờ ngày 11/2/2020 Q đang ngồi nghỉ ngơi thì bị lực lượng Công an thị xã BM đến kiểm tra, Q thừa nhận đang tàng trữ trái phép chất ma túy, tự nguyện lấy 01 bịch nilong hàn kín bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng là chất ma túy đá ở bên trong hộp nhựa màu đen được để trong túi xách màu xanh đang đeo trên lưng giao nộp. Lực lượng Công an thị xã BM lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2020/HS-ST ngày 18/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã BM, tỉnh Vĩnh Long, đã quyết định:

Tuyên b: Bị cáo Lê Thành Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Lê Thành Q 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2020.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 24/6/2020, bị cáo Lê Thành Q có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung xin được hưởng án treo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành Q đã thừa nhận án sơ thẩm đã xét xử đúng hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo đã không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đồng thời bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thành Q giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là xin được giảm hình phạt.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin được giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác được thu thập thể hiện trong hồ sơ vụ án. Qua đó xác định vào ngày 11/02/2020 bị cáo bị Công an thị xã BM bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, qua kết quả giám định chất ma túy có khối lượng 0,3876 gam, loại Methamphetamine.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ma túy gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây ảnh hưởng đến tình hình, trật tự trị an ở địa phương, bị cáo biết việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, án sơ thẩm xử phạt bị cáo 1 năm 6 tháng tù là không nặng, tương xứng với hành vi của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ giảm nhẹ và cho bị cáo hưởng hưởng án treo.

Do đó, việc Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo là có căn cứ.

[3] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thành Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Lê Thành Q 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2020.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Q nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2020/HS-PT ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về