Bản án 85/2020/HNGĐ-PT ngày 12/06/2020 về ly hôn

TÒA NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 85/2020/HNGĐ-PT NGÀY 12/06/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 12/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 91/2020/TLPT-HNGĐ ngày 29/4/2020.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 60/2019/HNGĐ-ST ngày 28/2/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 93/2020/QĐXX-PT ngày 06/5/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2020/QĐ-PT ngày 29/5/2020, giữa:

* Nguyên đơn: Chị LTHY, sinh năm 1993.

HKTT: Thôn Phú Yên, xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

* Bị đơn: Anh PVV, sinh năm 1992.

HKTT: Thôn Phú Yên, xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn ly hôn và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị LTHY trình bày:

Chị LTHY và anh PVV kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày 02/01/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình PVV. Cuộc sống chung hạnh phúc đến tháng 9/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Chị LTHY cho rằng nguyên nhân do thường xuyên bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau. PVV chơi bời nên dẫn đến nợ nần và không có khả năng thanh toán. Trong quá trình chị LTHY mang bầu và sinh con, PVV không quan tâm đến vợ con. Do quá áp lực nên trong lúc sinh con, chị LTHY đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 10/2019 cho đến nay. Vợ chồng ly thân và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm, không quan tâm đến nhau. Nay chị LTHY xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn PVV.

Tại bản tự khai ngày 27/12/2019, bị đơn là anh PVV trình bày:

Anh PVV và chị LTHY tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày 02/01/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống tại gia đình PVV. Cuộc sống chung hạnh phúc đến 25/10/2019 thì xảy ra mâu thuẫn do PVV làm ăn thua lỗ. Tháng 11/2019, chị LTHY xin về nhà bố mẹ đẻ ở 1 tuần nhưng sau đó thì ở luôn và đến nay không trở lại nhà PVV nữa. PVV thừa nhận vợ chồng đã ly thân và không quan hệ tình cảm từ đó cho đến nay. Mặc dù tình cảm vợ chồng vẫn còn nhưng do chị LTHY yêu cầu ly hôn nên PVV đồng ý.

Về con chung: Các đương sự cùng thừa nhận có 01 con chung là Phương Gia Khánh, sinh ngày 09/07/2019. Hiện nay con chung đang ở với chị LTHY. Chị LTHY và PVV cùng thống nhất giao con cho chị LTHY nuôi dưỡng. PVV đặt ra điều kiện chị LTHY phải tạo điều kiện cho PVV và gia đình thăm và đón con. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải do Tòa án nhân dân huyện Ba Vì tổ chức, PVV đã đồng ý với nội dung biên bản hòa giải nhưng không ký vào biên bản mà tự ý bỏ về vì không thống nhất được với chị LTHY thời gian đón con và yêu cầu khi chị LTHY kết hôn với người khác thì phải giao con lại cho PVV nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị LTHY yêu cầu PVV đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con là 3.000.000đ/tháng, PVV đã cũng đồng ý. Tuy nhiên sau đó PVV thay đổi ý kiến, chỉ đồng ý cấp dưỡng 1.000.000đ/tháng. Chị LTHY thay đổi yêu cầu PVV cấp dưỡng 2.000.000đ/tháng. Các đương sự không thống nhất được về mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Các đương sự đều thừa nhận không có. Về nợ chung: Các đương sự đều thừa nhận không có.

Tại Bản án số 60/2020/HNGĐ-ST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Hà Nội đã xử và QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị LTHY đối với anh PVV. Cho chị LTHY được ly hôn anh PVV.

Về con chung: Có 01 con chung, giao cho chị LTHY được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phương Gia Khánh, sinh ngày 09/07/2019 đến khi tròn, đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác.

Buộc anh PVV phải đóng góp để cấp dưỡng nuôi con chung cho chị LTHY mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 2/2020.

Anh PVV được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

Về tài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: Không có. Không đồng ý với Bản án sơ thẩm, ngày 14/3/2020 anh PVV kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại cấp phúc thẩm cũng như tại phiên tòa:

Chị LTHY không rút đơn khởi kiện, vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị với nội dung: Về tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được. Về việc nuôi con, hiện chị LTHY là giáo viên mầm non, có đủ điều kiện và đang chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Do vậy, đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng cáo của PVV và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Anh PVV không rút đơn kháng cáo, xin xét xử vắng mặt và có đơn đề nghị gửi Tòa án, xác định chỉ kháng cáo về phần cấp dưỡng nuôi con. Hiện PVV không có việc làm nên không thể cấp dưỡng như Bản án sơ thẩm đã tuyên và đề nghị cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Các đương sự và hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của người kháng cáo nằm trong thời hạn nên chấp nhận. PVV có đơn xin vắng mặt, chị LTHY vắng mặt nhưng có đơn trình bày nên việc xét xử vắng cả hai anh chị là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét đơn trình bày của PVV chỉ kháng cáo về việc cấp dưỡng với lý do hiện tại không có công việc nên chỉ cấp dưỡng được 1.000.000 đồng/tháng thì thấy rằng tại cấp sơ thẩm PVV khai thu nhập là 7.000.000 đồng/tháng. Bản án sơ thẩm tuyên mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp. Nay PVV trình bày không có công ăn việc làm chỉ là nhất thời nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh. Do đó đề nghị hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Đơn kháng cáo của của anh PVV nằm trong thời hạn kháng cáo nên chấp nhận đưa ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, chị LTHY và anh PVV đã được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt. Anh PVV có đơn xin xét xử vắng mặt.

Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của PVV chỉ kháng cáo phần cấp dưỡng nuôi con và trình bày hiện tại không có việc làm nên chỉ có thể cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng nhưng đây chỉ là nhất thời. Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào thu nhập theo lời khai của PVV để quyết định số tiền cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của PVV. Quan điểm giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về án phí: Anh PVV phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của anh PVV. Giữ nguyên Bản án số 60/2020/HNGĐ-ST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Hà Nội.

2. Về án phí: Anh PVV phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 9949 ngày 23/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì, Hà Nội.

Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2020/HNGĐ-PT ngày 12/06/2020 về ly hôn

Số hiệu:85/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về