TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 85/2020/DS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2020/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 96/2020/QĐST-DS ngày 04 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D; địa chỉ: 38/2 đường N, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Mỹ D1, sinh năm 1968; địa chỉ: 82 đường Y, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Văn bản ủy quyền ngày 05-8-2020). Bà D1 vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Duy K; địa chỉ: Thôn 5, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Anh K vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 02-6-2020, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị D trình bày:
Ngày 25-12-2019, bà cho anh Nguyễn Duy K vay 70.000.000 đồng, lãi suất là 4,5%/tháng, thời hạn vay là 10 ngày kể từ ngày vay.
Khi vay tiền, anh Nguyễn Duy K có thế chấp cho bà bản gốc của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 401875 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 17-12- 2018 cho người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là ông Nguyễn Đình K1, đã chỉnh lý sang tên cho anh Nguyễn Duy K ngày 11-7- 2019; Sổ hộ khẩu gia đình số 2171 cấp cho họ tên chủ hộ là ông Nguyễn Đình K1 và Giấy chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Duy K.
Đến hạn trả nợ, bà đã nhiều lần yêu cầu nhưng anh Nguyễn Duy K không trả cho bà 70.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi.
Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà 70.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật tính từ ngày 25-12-2019 đến ngày xét xử, giải quyết vụ án.
Tại Đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt ngày 25-12-2020, bà Đỗ Thị Mỹ D1 yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D 70.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi chậm trả tính từ ngày 25-12-2019 đến ngày xét xử sơ thẩm với lãi suất là 0,83%/tháng.
2. Toà án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục để triệu tập hợp lệ đối với anh Nguyễn Duy K. Tuy nhiên, anh Nguyễn Duy K không đến Toà án để tham gia tố tụng. Do vậy, anh Nguyễn Duy K không có lời khai tại hồ sơ và không có lời khai tại phiên toà.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D, buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D 70.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi tính từ ngày 25-12-2019 đến ngày xét xử sơ thẩm, anh Nguyễn Duy K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Về thẩm quyền: Bà Nguyễn Thị D khởi kiện tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản đối với anh Nguyễn Duy K, anh Nguyễn Duy K có nơi cư trú tại thành phố P nên căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Đỗ Thị Mỹ D1 vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Nguyễn Duy K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Nguyễn Duy K tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên theo quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 25-12-2019, anh Nguyễn Duy K vay của bà Nguyễn Thị D 70.000.000 đồng với thời hạn vay là 10 ngày, kể từ ngày 25-12-2019, lãi suất do hai bên tự thỏa thuận.
Khi vay, các bên có lập văn bản và ký xác nhận việc vay tiền. Đến thời hạn trả nợ, bà Nguyễn Thị D đã nhiều lần yêu cầu nhưng anh Nguyễn Duy K không trả nợ gốc và tiền lãi cho bà Nguyễn Thị D. Do bên vay không tự nguyện trả nợ nên bà Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án xử buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D 70.000.000 đồng nợ gốc theo “Giấy mượn tiền” ngày 25-12-2019 và tiền lãi với mức lãi suất là 0,83%/tháng của 70.000.000 đồng tính từ ngày 25- 12-2019 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Xét, hợp đồng vay tài sản giữa bà Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Duy K được giao kết hợp pháp, nên nó phát sinh hiệu lực, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Nhưng vì anh Nguyễn Duy K vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay, nên bà Nguyễn Thị D khởi kiện là có căn cứ.
Hội đồng xét xử sẽ xử buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D 70.000.000 đồng nợ gốc.
Về tiền lãi: Bà Nguyễn Thị D yêu cầu anh Nguyễn Duy K phải trả tiền lãi của 70.000.000 đồng nợ gốc, với mức lãi suất là 0,83%/tháng tính từ ngày 25-12- 2019 đến ngày 30-12-2020.
Yêu cầu này của bà Nguyễn Thị D hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật về dân sự, nên được chấp nhận. Do vậy, tiền lãi mà anh Nguyễn Duy K phải trả cho Nguyễn Thị D được tính như sau:
Từ ngày 25-12-2019 đến ngày 30-12-2020 là 371 ngày: 70.000.000 đồng x 371 ngày x 0,83%/30 ngày = 7.185.000 đồng.
Như vậy, tổng số nợ gốc và tiền lãi mà anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D là: 70.000.000 đồng + 7.185.000 đồng = 77.185.000 đồng.
[3] Đối với bản gốc của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 401875 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 17-12-2018 cho người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là ông Nguyễn Đình K1, đã chỉnh lý sang tên cho anh Nguyễn Duy K ngày 11-7-2019; Sổ hộ khẩu gia đình số 2171 cấp cho họ tên chủ hộ là ông Nguyễn Đình K1 và Giấy chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Duy K được anh Nguyễn Duy K thế chấp cho bà Nguyễn Thị D khi vay tiền, việc thế chấp không được các bên tuân thủ theo luật định nên không có hiệu lực, vì vậy sẽ buộc bà Nguyễn Thị D phải trả lại cho anh Nguyễn Duy K bản gốc của các giấy tờ nói trên.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên anh Nguyễn Duy K phải chịu 3.859.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 180, các điểm a và b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 274, 275, 463, 466, 468 và khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D.
Buộc anh Nguyễn Duy K phải trả cho bà Nguyễn Thị D 77.185.000 đồng (trong đó có 70.000.000 đồng nợ gốc và 7.185.000 đồng tiền lãi).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Bà Nguyễn Thị D có nghĩa vụ phải trả lại cho anh Nguyễn Duy K bản gốc của các giấy tờ sau đây: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 401875 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 17-12-2018 cho người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là ông Nguyễn Đình K1, đã chỉnh lý sang tên cho anh Nguyễn Duy K ngày 11-7-2019; Sổ hộ khẩu gia đình số 2171 cấp cho họ tên chủ hộ là ông Nguyễn Đình K1 và Giấy chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Duy K.
Nếu bà Nguyễn Thị D không thực hiện nghĩa vụ nói trên, anh Nguyễn Duy K có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại các giấy tờ nói trên.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc anh Nguyễn Duy K phải chịu 3.859.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị D 1.883.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0005142 ngày 16-6-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai.
4. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 85/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản
Số hiệu: | 85/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về