TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 84/2021/HS-PT NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 02 tháng 02 năm 2021, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 854/2020/TLHS- PT ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Hoàng K1 do có đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án huyện UH, thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Hoàng K1, sinh năm 1990; HKTT: Thôn Bài Lâm Thượng, xã HQ, huyện UH, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1964 và con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965; có vợ là Hoàng Thị TH, sinh năm 1992 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 02- Công an thành phố Hà Nội, theo lệnh giam của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (Bị cáo bị giam trong một vụ án khác); (Có mặt).
- Bị hại: Anh Lê Văn T1, sinh năm 1987; Trú tại: Thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện MY, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đầu tháng 7/2018, Phạm Hoàng K1 thuê chiếc xe ô tô hiệu KIA biển kiểm soát 30E-441.77 của anh Phạm Hoàng An, trú tại phường Kim Mã, quận BĐ, thành phố Hà Nội để làm phương tiện chạy dịch vụ Taxi. Ngày 17/4/2019, K1 đem xe ô tô trên cầm cố cho Lê Văn T1, trú tại thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện MY lấy 150.000.000 đồng, khi cầm cố K1 viết giấy mua bán, cho, tặng xe. Sáu đó K1 đến nhà T1 vay T1 tiền hai lần tổng số là 46 triệu. Do chưa có tiền trả nên K1 bảo T1 cộng dồn vào số tiền trước đó đã cầm cố xe ô tô và viết 01 giấy bán, cho tặng xe đề ngày 17/4/2019 số tiền là 200.000.000 đồng. Ngày 27/6/2019, anh An gọi điện thoại cho K1 yêu cầu đem xe ô tô để Ngân hàng kiểm tra (Xe đã thế chấp cho Ngân hàng), do không có tiền chuộc xe nên K1 nảy sinh ý định mượn xe ô tô của ông Hoàng Quốc Đoàn (là bố vợ K1) để đổi cho T1 lấy xe ô tô trả anh An, do đó, sáng ngày 28/6/2019, K1 gọi điện cho T1 nói: “Em mượn xe ô tô của bố, mẹ vợ để đổi lấy xe ô tô của anh” thì T1 đồng ý. Khoảng 14 giờ ngày 28/6/2019, K1 xuống nhà ông Đoàn thấy bà Nguyễn Thị Thu Hiền (mẹ vợ) ở nhà. K1 nói với bà Hiền cho mượn xe đi có việc, bà Hiền đồng ý. K1 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 30F- 240.53 đổi cho anh T1. Sau khi đã đổi K1 trả xe cho anh An thì anh An không cho K1 thuê nữa. Do không thấy K1 mang xe về trả, nên khoảng 18 giờ anh Hoàng Quốc P1 (em vợ K1) gọi điện thoại cho K1 thì K1 nói đang đi có việc, xe ô tô đang để dưới quán bia nhà Vĩnh Hòa và bảo P1 cầm chìa khóa phụ xuống đi xe về hộ. Vì không biết giữa K1 và T1 có việc cầm cố xe nên anh P1 đến khu vực để xe ở cạnh cổng trường học cấp II xã HQ và điều khiển xe đi về nhà, ngay sau đó K1 gọi điện thoại cho P1 nói “Anh có cắm cho thằng T1 xe ô tô trước, nay anh lấy xe của bố mẹ để đổi lấy cái xe trắng anh mang ra Hà Nội cho bà chủ với ngân hàng kiểm tra, nhưng bà chủ không cho thuê nữa anh không có xe về, em xuống có anh T1 ngồi bên trong quán để xin lại chìa khóa”. Nghe K1 nói vậy P1 đi xuống quán bia thấy anh T1 đang hỏi mọi người về việc bị mất xe. P1 nói với T1 “Anh K1 nói xe anh đổi đi Hà Nội đang để ở dưới này em xuống đi về”, T1 nói “Xe của tao ai cho mày đi về” và yêu cầu anh P1 mang xe lên trả, P1 nói không biết gì, xe của nhà thì đi về. Tiếp đó T1 gọi điện thoại cho Bùi Đăng Hiếu, trú tại thôn Yến Vĩ, xã Hương Sơn, huyện MY đến để cùng đòi P1 xe, Hiếu đi xe máy đến nói với anh P1 “Cái xe ô tô này đưa cho thằng T1 thì nó có trách nhiệm bảo quản, mày không hỏi nó mà tự ý đánh xe đi nó biết ăn nói như thế nào với thằng K1, bây giờ mày phải mang xe trả nó”, P1 không đồng ý thì bị Hiếu và T1 dùng chân, tay đánh, do sợ bị đánh tiếp nên anh P1 phỉa dẫn T1 đi về nhà để lấy xe, về đến nhà P1 gặp ông Đoàn đang ở nhà. Thấy T1 đến đòi xe nên ông Đoàn nói “Cứ để cho nó đi rồi báo công an”. Sau đó T1 lấy xe chở P1 tới cổng Trường cấp II, xã HQ thì P1 xuống xe còn T1 điều khiển đi xe về. Sau khi sự việc xảy ra, ông Hoàng Quốc Đoàn có đơn trình báo đến Công an huyện UH xử lý theo quy định pháp luật.
Ngày 30/6/2019, Lê Văn T1 tự nguyện mang giao nộp chiếc xe ô tô hiệu KIA CERATO biển kiểm soát 30F-240.53 cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện UH và có đơn đề nghị xử lý Phạm Hoàng K1 theo quy định của pháp luật về hành vi chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của T1.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 chiếc xe ô tô hiệu KIA CERATO biển kiểm soát 30F-240.53.
- 01 chìa khóa ô tô màu đen trắng, một mặt ghi chữ KIA, một mặt ghi chữ HOLD.
- 01 giấy bán cho, tặng xe đề ngày 17/4/2019, nội dung: Chủ xe Phạm Hoàng An, địa chỉ Kim Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội có chiếc xe ô tô KIA BKS 30E-441.77 nay bán, tặng cho Lê Văn T1, trú tại thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện MY làm thủ tục sang tên xe (không có số tiền), có ký nhận người bán, tặng xe là Phạm Hoàng K1 (trong hồ sơ vụ án).
- 01 giấy bán cho, tặng xe đề ngày 17/4/2019, nội dung: Chủ xe Phạm Hoàng An, địa chỉ Kim Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội có chiếc xe ô tô KIA BKS 30E-441.77, số máy 25805, số khung 090609 nay bán, tặng cho Lê Văn T1, trú tại thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện MY số tiền 200.000.000 đồng làm thủ tục sang tên xe, có ký nhận người bán, tặng xe là Phạm Hoàng K1 (trong hồ sơ vụ án).
- 01 chứng minh thư nhân dân số 168369394 mang tên Phạm Hoàng K1.
- 01 chiếc USB màu xanh, có quấn băng dính màu xanh.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 50/KL-HĐ ngày 26/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện UH, thành phố Hà Nội định giá xe ô tô hiệu KIA biển kiểm soát 30F-240.53 số khung 41A6JC128301, số máy G4FGJH60119, trị giá 520.000.000 đồng.
Ngày 19/8/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện UH ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Phạm Hoàng K1 về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự, nhưng K1 bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 17/01/2020 K1 bị Cơ quan CSĐT - Công an quận Hà Đông bắt, khởi tố bị can và tạm giam về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.Sau đó, vụ án này được chuyển các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội điều tra, xét xử theo thẩm quyền.
Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số : 51/CT - VKS ngày 15/7/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hoà truy đã truy tố bị cáo Phạm Hoàng K1 về tội : “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự.
Tại bản án số 54/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện UH, thành phố Hà Nội đã quyết định:
sản".
Tuyên bố: Phạm Hoàng K1 phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Phạm Hoàng K1 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 23/9/2020, bị cáo đã có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Hoàng K1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:
- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung: Bị cáo Phạm Hoàng K1 có hành vi đặt xe ô tô để chiếm đoạt số tiền 150 triệu đồng của anh Lê Văn T1. Hội đồng xét xử sơ thẩm xử bị cáo Phạm Hoàng K1 về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K1 mức án 42 (Bốn mươi hai) tháng tù là có căn cứ. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hoàng K1. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hoàng K1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Phạm Hoàng K1 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Phạm Hoàng K1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Phạm Hoàng K1, lời khai của người bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Phạm Hoàng K1 thuê xe ô tô hiệu Kia, BKS 30E- 441.77 của anh Phạm Hoàng An để làm P1 tiện dịch vụ taxi. Ngày 17/4/2019, K1 cầm cố chiếc xe ô tô trên cho anh Lê Văn T1 lấy 150 triệu đồng. Sau đó K1 lại vạy của anh T1 46 triệu đồng nên K1 đã viết giấy bán, tặng cho xe cho anh T1 là 200.000.000đồng. Ngày 27/6/2019 anh An gọi điện yêu cầu K1 mang xe đến để Ngân hàng kiểm tra, vì vậy ngày 28/6/2020, K1 mượn xe ô tô biển kiểm soát 30F- 240.53 của bà Nguyễn Thị Thu Hiền (Vợ ông Hoàng Quốc Đoàn) xe của ông Đoàn để đổi cho anh T1 lấy chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30E-441.77 trả anh An, sau khi trả xe anh An thì anh An không cho K1 tiếp tục thuê xe. K1 thấy mình không có khả năng trả tiền cho anh T1 để lấy lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30F-240.53 trả cho bố mẹ vợ nên K1 đã bảo Hoàng Quốc P1 (là em vợ K1) đem chìa khóa phụ ra lấy chiếc xe ô tô của bố mẹ vợ mình về, rồi K1 bỏ trốn khỏi địa phương nhằm mục đích để không phải trả anh Lê Văn T1 số tiền 150.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã bị hội đồng xử xử cấp sơ thẩm xét xử về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Hoàng K1, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Phạm Hoàng K1 42 (Bốn mươi hai) tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của Phạm Hoàng K1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện UH, thành phố Hà Nội.
Tuyên bố: Phạm Hoàng K1 phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Hoàng K1, 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vê án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự phúc thẩm. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 84/2021/HS-PT ngày 02/02/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 84/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về