Bản án 84/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 84/2020/HS-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn Q (tên gọi khác: P), sinh năm: 1995 tại Tiền Giang. Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn Bé T (đã chết) và bà Lê Thị N; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: từ nhỏ sống chung gia đình tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang, học đến lớp 9 nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Đến ngày 16/6/2020 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; bị tạm giữ ngày 16/6/2020, chuyển tạm giam ngày 25/6/2020 đến nay. (Bị cáo có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Huỳnh Thị Thanh T  sinh năm: 1991 (có mặt) Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang

Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn B    sinh năm: 1944 (vắng mặt)

2. Ông Huỳnh Văn V    sinh năm: 1956 (vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc bị cáo Huỳnh Văn Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà ở số 271, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện C phối hợp cùng Công an xã B tiến hành tổ chức kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng phát hiện trên người bị cáo Q trong túi quần tây phía trước, bên phải có 01 đoạn ống nhựa được hàn kín, bên ngoài ống nhựa được quấn băng keo màu đen, bên trong có chứa tinh thể trong suốt, 01 đoạn ống thủy tinh có một đầu được uống cong, hình dạng phễu (nỏ) bên trong có chứa tinh thể trong suốt. Theo lời trình bày của bị cáo Q đây là ma túy nên lực lượng Cảnh sát điều tra lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ bị cáo Q cùng toàn bộ tang vật.

Theo Kết luận giám định số 288/KLGĐ-PC09 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: Mẫu tinh thể trong suốt bên trong 01 đoạn ống nhựa được niêm phong trong bao thư (ký hiệu số 1) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1466 gam, loại Methamphetamine; mẫu tinh thể trong suốt bên trong một đoạn ống thủy tinh được niêm phong trong bao thư (ký hiệu số 2) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0669 gam, loại Methamphetamine.

Sau giám định hoàn lại mẫu tinh thể trong phong bì (ký hiệu số 1) có khối lượng 0,0879 gam, không hoàn lại mẫu tinh thể trong phong bì (ký hiệu số 2) do mẫu đã được sử dụng hết trong quá trình giám định, kèm theo vỏ bao gói. Mẫu tinh thể và vỏ bao gói được để trong 02 bao thư niêm phong số 288/1 và 288/2 (ký hiệu 1, 2).

Tại bản cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Huỳnh Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Q từ 15 đến 18 tháng tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là khoảng 12 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2020 tại nhà ở số 271, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long là 0,2135 gam, loại Methamphetamine.

[2] Lời nhận tội của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Q đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là ảnh hưởng đến sức khỏe của mình và có thể dẫn đến hành vi phạm tội khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp, không sợ bị phát hiện. Do đó, cần phải có một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho những ai đang có tư tưởng phạm tội như bị cáo.

[4] Tuy nhiên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo do bị cáo thành khẩn khai báo và nhận tội, có thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bản thân bị cáo Q là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập, không có tài sản riêng. Do đó miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số Methamphetamine: Tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa không xác định được họ và địa chỉ cụ thể của đối tượng tên T đã bán ma túy cho bị cáo tàng trữ để sử dụng, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, truy tìm T khi có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[7] Đối với xe mô tô biển số 63B1-147.55 thuộc sở hữu của chị Huỳnh Thị Thanh T bị cáo sử dụng đi mua ma túy để tàng trữ trái phép chị T không biết nên cơ quan điều tra không thu giữ là phù hợp.

[8] Về vật chứng của vụ án hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện C hiện đang tạm giữ gồm:

- 01 bì thư niêm phong có ký hiệu số 288/1 ghi ngày 19/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long, có chữ ký ghi rõ họ tên Trần Vũ K và Nguyễn Trần Thanh U, bên trong có 01 gói ny lon màu trắng được dán kín chứa 0,0879 gam, là ma túy loại Methamphetamine và vỏ bao gói. Xét thấy, đây là chất cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 bì thư niêm phong có ký hiệu số 288/2 ghi ngày 19/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long, có chữ ký ghi rõ họ tên Trần Vũ K và Nguyễn Trần Thanh U, là một đoạn ống thủy tinh được uống cong dạng hình phễu; 01 đoạn băng keo dán màu đen; 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 con dao kim loại, phần cán có quấn băng keo màu đen. Xét thấy, đây là những vật dụng dùng để tàng trữ, sử dụng may túy và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Q phải chịu theo quy định của pháp luật

[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Q (tên gọi khác là P) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 16 tháng 6 năm 2020.

2. Về vật chứng: áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2.1 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì thư niêm phong có ký hiệu số 288/1 ghi ngày 19/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long, có chữ ký ghi rõ họ tên Trần Vũ K và Nguyễn Trần Thanh U, bên trong có 01 gói ny lon màu trắng được dán kín chứa 0,0879 gam, là ma túy loại Methamphetamine và vỏ bao gói.

- 01 bì thư niêm phong có ký hiệu số 288/2 ghi ngày 19/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long, có chữ ký ghi rõ họ tên Trần Vũ K và Nguyễn Trần Thanh U, là một đoạn ống thủy tinh được uống cong dạng hình phễu; 01 đoạn băng keo dán màu đen; 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 con dao kim loại, phần cán có quấn băng keo màu đen.

Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện C hiện đang tạm giữ theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12 tháng 10 năm 2020.

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Huỳnh Văn Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Chị Huỳnh Thị Thanh T được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:84/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về