Bản án 84/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 84/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại Toà án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:91/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2019/QĐXXST-HS ngày 10/9/2019 đối với bị cáo:

VŨ DUY K, sinh năm: 1991 tại Bình Phước; tên gọi khác: V; Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, ấp Đ, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn M. Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, ấp Đ, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước và bà Huỳnh Thị T (đã chết); Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T – SN: 1990 và 03 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018). Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, ấp Đ, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Tiền án: 01 (bị Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 28/3/2017); Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 30/11/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành Phố. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 283/2011/HSST.Bị cáo bị tạm giữ, tạm giamtừ ngày 30/6/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Lê Thị D, sinh năm 1983; Địa chỉ cư trú: Tổ 4, ấp 11, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước. (Vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, ấp Đ, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở hiện nay: Ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Duy K là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, K bị Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSSTngày 28/3/2017, chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân. Ngày 20/10/2017, K chấp hành án xong hình phạt.

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/6/2019, K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, màu đỏ đen, biển số 93C1-222.86, số máy: JF66E0914337, số khung: 5810JY038909 đến tiệm tạp hóa “Lê Na” tại ấp 11, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành do chị Lê Thị D, sinh năm 1983 làm chủ để mua bia đến nhà người bạn tên Thanh nhà ở gần chợ Minh Hưng để cùng nhậu. Lợi dụng lúc chị D vắng nhà, chỉ có hai cháu nhỏ con chị D là Đào Thị Lê N, sinh năm 2009 và cháu Đào Văn Lê Nam, sinh năm 2012 trông coi tiệm tạp hóa nên K đã lấy trộm 02 thùng bia SAIGON xanh loại thùng 24 lon và lẻn vào phòng ngủ của chị D lấy trộm 01 sợ dây chuyền vàng 18K hình dẹp, 01 thùng loa kẹo kéo hiệu KVG màu nâu đen và 02 micro nhãn hiệu IR màu cam rồi chở số tài sản nêu trên về phòng trọ của mình tại ấp Mỹ Hưng, xã Thành Tâm, huyện Chơn Thành cất giấu. Sau đó, K đưa sợi dây chuyền vàng 18K cho vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1990 và nói K mới mua. Đối với 02 thùng bia SAIGON xanh nêu trên K rủ một số người bạn đến phòng uống hết.

Sau khi chị D đi chợ về phát hiện tài sản bị mất nên chị D đã kiểm tra camera an ninh của gia đình thì phát hiện có một thanh niên lạ mặt đến quán mua đồ và đã lấy trộm những tài sản nêu trên. Do đó, chị D đã đến Công an xã Minh Hưng trình báo. Qua truy xét, ngày 30/6/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Vũ Duy K và áp giải về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Vũ Duy K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Quá trình khám nghiệm hiện trường Cơ quan điều tra đã tiến hành trích xuất camera an ninh số 01 tại nhà chị Lê Thị D và thu đoạn video từ khoảng thời gian 08 giờ 43 phút đến 08 giờ 55 phút ngày 29/6/2019 rồi lưu vào 01 USB màu trắng nhãn hiệu TOSHIBA loại 8Gb. Sau khi trích xuất đã niêm phong USB lại.

Qua khám xét phòng trọ của K tại ấp Mỹ Hưng, xã Thành Tâm, huyện Chơn Thành, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 thùng loa kẹo kéo hiệu KVG, loại 150W, màu nâu đen và 02 micro nhãn hiệu IR màu cam. Đối với sợi dây chuyền vàng 18k, hình dẹp chị T đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 41/KLĐG-HĐĐGTS ngày 05/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Chơn Thành xác định: 01 sợi dây chuyền vàng 18k, hình dẹp giá trị sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.668.000đồng; 01 thùng loa kẹo kéo màu nâu đen, nhãn hiệu KVG, loại 150W và 02 micro nhãn hiệu IR giá trị sử dụng còn lại 3.000.000đồng, 02 thùng bia SAIGON Xanh giá trị sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt là 470.000đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt 6.138.000đồng.

Vật chứng vụ án:

01 thùng loa kẹo kéo hiệu KVG, loại 150W, màu nâu đen và 02 micro nhãn hiệu IR màu cam và 01 sợi dây chuyền vàng 18k, hình dẹp. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị D nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành đã ra quyết định trả lại cho chị D.

Đối với 02 thùng bia SAIGON xanh, K đã sử dụng hết và vứt bỏ vỏ nên không thu hồi được.

01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, biển số 93C1-222.86 màu đỏ đen, biển số 93C1-222.86, số máy: JF66E0914337, số khung: 5810JY038909. Xe mô tô này là tài sản của chị Nguyễn Thị T (là vợ K) đứng tên chủ sở hữu, chị T không biết việc K sử dụng xe mô tô này để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành đã ra quyết định trả lại cho chị T.

01 USB màu trắng nhãn hiệu TOSHIBA loại 8Gb trích xuất từ camera nhà của chị D là chứng cứ kèm theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại Lê Thị D không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Bản cáo trạng số:92/CTr-VKS, ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Võ Duy K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm”. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vũ Duy K về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 53; Điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Vũ Duy Ktừ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước còn đề nghị xử lý vật chứng và các vấn đề khác của vụ án theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Duy K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, việc vắng mặt người bị hại,người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không ảnh hưởngđến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[3]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/6/2019, tại tiệm tạp hóa “Lê Na” địa chỉ ấp 11, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành do chị Lê Thị D làm chủ. Bị cáo Võ Duy K lợi dụng sự sơ hở khi chị D vắng mặt tại tiệm tạp hóa nênđã lén lút chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền vàng 18K, hình dẹp; 01 thùng loa kẹo kéo màu nâu đen, nhãn hiệu KVG, loại 150W cùng 02 micro nhãn hiệu IR và 02 thùng bia SAIGON xanh.

Kết luận định giá tài sản số: 41/KLĐG-HĐĐGTS ngày 05/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Chơn Thành xác định01 sợi dây chuyền vàng 18K, hình dẹp có giá trị 2.668.000đ; 01 thùng loa kẹo kéo màu nâu đen, nhãn hiệu KVG, loại 150W và 02 micro nhãn hiệu IR có giá trị 3.000.000đ; 02 thùng bia SAIGON xanh có giá trị 470.000đ.Tổng trị giá tài sản tại thời điểm bị cáo K chiếm đoạtlà 6.138.000đ.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, Cáo trạng số 92/CTr-VKS, ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Võ Duy K phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra bị cáo còn là người có nhân thân xấu, ngày 30/11/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 283/2011/HSST. Nên cân phai xư phat bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bi cao thành người có ích cho xã hội va cũng để giáo dục, phòng ngừa chung.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nơi làm việc, thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình giải quyết vụ án, người bị hại Lê Thị D đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7].Về vật chứng:

01 thùng loa kẹo kéo hiệu KVG, loại 150W, màu nâu đen và 02 micro nhãn hiệu IR màu cam và 01 sợi dây chuyền vàng 18k, hình dẹplà tài sản hợp pháp của chị Lê Thị D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành đã trả lại cho chị D.01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, biển số 93C1-222.86 màu đỏ đen, biển số 93C1-222.86, số máy: JF66E0914337, số khung: 5810JY038909là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị T (là vợ K), chị T không biết K sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành đã trả lại cho chị T. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết lại.

Đối với 02 thùng bia SAIGON xanh, K đã sử dụng hết và vứt bỏ vỏ nên không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét giải quyết.

01 USB màu trắng nhãn hiệu TOSHIBA loại 8Gb trích xuất từ camera nhà của chị D là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên tiếp tục lưu giữ kèm theo hồ sơ vụ án.

[8]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 53; Điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Duy K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Vũ Duy K01(Một)năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/6/2019.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Duy K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Duy K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại chị Lê Thị D, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về