Bản án 84/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 84/2019/HS-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thị Bích H, sinh năm 1964; Tại: Thị trấn Tr, huyện Gi, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Tổ K, thị trấn Tr, huyện Gi, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 2/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân Đ và bà Nguyễn Thị D (đã chết); Có chồng thứ nhất là Nguyễn Văn V, chồng thứ 2 là Lê Thanh Q (đều đã chết) và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân Thân:

- Ngày 25/6/1997 bị TAND huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.

- Ngày 21/8/1997 bị TAND tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” và tổng hợp 12 tháng tù của bản án số 23 ngày 25/6/1997 của TAND huyện Mỹ Văn. Buộc bị cáo chấp hành cả hai bản án là 27 tháng tù.

- Ngày 12/11/2002 bị TAND thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 06/3/2006 bị TAND huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 16/3/2009 bị TAND quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 16/8/2011 bị TAND huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 03/8/2012.

- Ngày 18/01/2013 bị TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 18/8/2013.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 06/7/2019 đến ngày 12/7/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người đại diện hợp pháp và là người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Bích H: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1985, địa chỉ: Tổ dân phố Ki, thị Trấn Tr, huyện Gi, TP. Hà Nội - Là con đẻ của H; Có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị O - Sinh năm 1991 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h45’ ngày 06/7/2019 Lê Thị Bích H mặc áo chống nắng trùm kín đầu, đi cùng một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ, vào khu vực chợ của gia đình anh Nguyễn Bình M ở thôn Thịnh Vinh, xã Hà Bình, huyện Hà Trung tự mở và quản lý. H đi lang thang ở các cửa hàng bán quần áo, giầy dép, rau, củ tập trung đông người. Lúc này, chị Phạm Thị Ph, là người bán hàng quần áo trong chợ phát hiện thấy H thường chen vào những chỗ đông người mà không thấy mua đồ nên nghi ngờ là đối tượng trộm cắp tài sản của người đi chợ. Chị Ph đã báo cho anh Minh là quản lý khu chợ biết. Nhận được tin báo của chị Ph, Anh M cùng với anh Hoàng Văn T và anh Lê Văn Q là bảo vệ khu chợ, theo dõi, giám sát H. Đến khoảng 17h cùng ngày, H phát hiện thấy chị Nguyễn Thị O là người đi chợ có đeo 01 túi xách màu xám bạc, bên trong có một điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J7 đã qua sử dụng. Chị Oanh đến cửa hàng bán rau thì H áp sát vào phía sau chị O. Khi chị O cúi xuống chọn rau, chị O hất túi xách về phía sau cho khỏi vướng, lợi dụng lúc này H dùng tay móc vào trong túi xách của chị O và lấy chiếc điện thoại Sam sung J7 ra khỏi túi, H cầm điện thoại ở tay. Toàn bộ quá trình H móc tay vào túi xách của chị O lấy chiếc điện thoại đã bị anh M theo dõi và chứng kiến. Lập tức, anh M chạy đến bắt giữ H và hô hoán mọi người xung quanh hỗ trợ. Anh T và anh Q đang ở gần đấy chạy đến thì thấy H thả chiếc điện thoại đang cầm trên tay xuống đất, làm chiếc điện thoại bị rạn nứt màn hình. Anh T cầm chiếc điện thoại dưới đất dơ lên hỏi điện thoại của ai. Lúc này chị O kiểm tra lại túi xách của mình thì phát hiện điện thoại của chị bị mất và chiếc điện thoại mà anh T đang cầm trên tay là điện thoại của chị. Sau khi bắt giữ được H, anh M đã điện báo cho CA xã Hà Bình đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ chiếc điện thoại làm vật chứng. Công an xã Hà Bình đã chuyển toàn bộ hồ sơ cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 10/7/2019 Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hà Trung định giá chiếc điện thoại Samsung J7 có giá trị là 2.700.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKSHT ngày 30/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Lê Thị Bích H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Bích H từ 06 tháng đến 09 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa: Đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại, bố mẹ đẻ là người có công, tài sản có giá trị thấp và đã trả ngay cho chị O và chị O xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người có nhược điểm về thể chất là nghe kém hai tai nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với mức án thấp nhất.

Lời nói sau cùng bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời gian theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Bích H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17h00 ngày 06/7/2019 tại khu vực chợ tự phát của gia đình anh Nguyễn Bình Minh ở thôn Thịnh Vinh, xã Hà Bình, huyện Hà Trung, Lê Thị Bích H lợi dụng lúc họp chợ đông người lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J7 của chị Lê Thị O, có giá trị thành tiền là: 2.700.000đồng. Như vậy hành của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Quyền sở hữu tài sản luôn được pháp luật bảo vệ nhưng H đã không bỏ sức lao động chân chính để có được, lợi dụng chỗ đông người và sự sơ hở của chị Oanh đã lén lút trộm cắp chiếc điện thoại nhằm để bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm, táo tợn, gây hoang mang tâm lý trong nhân dân và gây mất trật tự xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Tuy nhiên, bị cáo đã 07 lần bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” nay đã được xóa án tích. Đây thể hiện sự xem thường pháp luật nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị con gái bồi thường số tiền 500.000đ để chị O sửa mặt kính điện thoại, tài sản đã trả lại ngay cho bị hại, tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn, bố mẹ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng nhì, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người có nhược điểm về thể chất. Nên cần áp dụng điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ vào hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần phải xử cách ly H ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục là cần thiết.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại Samsung J7 là của chị Nguyễn Thị O nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho chị O theo quy định, chị O không có yêu cầu đề nghị gì thêm về bồi thường thiệt hại. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Bích H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Bích H: 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 06/7/2019.

2. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Lê Thị Bích H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với bị cáo H, chị H kể từ ngày tuyên án, đối với chị O kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về