Bản án 84/2017/DS-ST ngày 28/09/2017 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 84/2017/DS-ST NGÀY 28/09/2017 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Ngày 28 tháng 9 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2017/TLST-DS ngày 23 tháng 5 năm 2017. Về việc “Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2017/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Hồng Ph - sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp TT, xã TH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thúy K - sinh năm 1976 (Có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp TT, xã TH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Bà Trần Ngọc M - sinh năm 1953 (Vắng mặt).

2/. Ông Tiêu Thanh Ph - sinh năm 1947 (Vắng mặt).

3/. Anh Tiêu Thanh S - sinh năm 1976 (Có mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: Ấp TT, xã TH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo chị Lê Hồng Ph trình bày:

Vào ngày 25 - 9 - 2015 (âm lịch) chị có mở dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, dây hụi có tổng cộng 34 chân, mỗi tháng khui hụi 01 lần, hụi khui vào ngày 25 hàng tháng và gom tiền hụi, giao tiền hụi từ ngày 05 đến ngày 07 hàng tháng. Trong dây hụi này, vợ chồng ông Ph và bà M có tham gia chơi 04 chân, đến ngày 25 - 12 -2015 (lần khui hụi thứ 04) thì bà M bỏ hụi hốt 01 chân, còn lại 03 chân hụi sống. Sau đó, bà M bị bệnh nặng nên mọi giao dịch về hụi với chị đều giao lại cho con trai là Tiêu Thanh S, con dâu là Nguyễn Thúy K trực tiếp chịu trách nhiệm và thực hiện. Đến ngày 25 - 10-2016, chị K đến khui hụi bỏ với số tiền 230.000 đồng và hốt hụi, chị đã chung hụi cho chị K với số tiền là 25.360.000 đồng. Như vậy, chị K và anh S còn lại 02 chân hụi sống.

Do chị Ph mở nhiều dây hụi cùng thời điểm nên chị gom nhầm tiền hụi của chị Ph và anh S. Cụ thể, chân hụi chết mà chị K đã hốt thì chị lại gom hụi sống trong nhiều tháng liền. Sau đó, chị mới phát hiện và đối chiếu lại. Khi đối chiếu lại thì chị K có thừa nhận là bị nhầm nhưng sau đó chị K và anh S không thừa nhận. Khi sự việc xảy ra, các hụi viên tham gia cùng dây hụi đều xác nhận việc chị K đã hốt chân hụi thứ hai vào ngày 25 - 10 -2016. Chị Ph đã thu tiền hụi bị sống từ ngày 05 - 12 - 2016 đến ngày 05 - 5 - 2017 thất thoát với số tiền là 1.260.000 đồng, (cụ thể ngày 05 - 12 - 2016 bù cho hụi viên 180.000 đồng, ngày 05 - 01 - 2017 bù cho hụi viên 190.000 đồng, ngày 05 - 02 - 2017 bù cho hụi viên 210.000 đồng, ngày 05 - 3 - 2017 bù cho hụi viên 215.000 đồng, ngày 05 - 4 - 2017 bù cho hụi viên 230.000 đồng, ngày 05 - 5 - 2017 bù cho hụi viên 235.000 đồng). Từ ngày 05 - 6-2017 đến ngày xét xử sơ thẩm chị K và anh S không đóng hụi, chị Ph bù cho các hụi viên 04 kỳ hụi chết là 4.000.000 đồng. Tổng số tiền chị Ph đã đóng hụi thay cho chị K và anh S là 5.260.000 đồng.

Dây hụi này hiện nay chết được 24 lần, còn lại 10 lần nữa mới mãn hụi. Tại phiên tòa, chị Ph yêu cầu chị K, anh S, bà M và ông Ph trả lại cho chị số tiền 5.260.000 đồng.

- Theo chị Nguyễn Thúy K trình bày: Vào ngày 25 - 9 - 2015 cha mẹ chồng của chị là bà M và ông Ph có tham gia chơi 04 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng, mỗi tháng khui hụi 01 lần do chị Ph làm chủ hụi. Sau khi tham gia chơi hụi thì bà M bị bệnh phải đi điều trị nên giao toàn bộ 04 chân hụi cho vợ chồng chị trực tiếp giao dịch. Đến ngày 25-3-2016, chị đi khui hụi và bỏ hụi với số tiền là 250.000 đồng thì hốt hụi. Đến ngày 06-4-2016, chị Ph giao hụi cho chị và trừ lại 03 chân hụi sống, chị đã nhận 23.500.000 đồng. Chân hụi này là do mẹ chồng của chị chơi dùm cho ông Đinh T, sau khi nhận tiền hụi về chị giao lại toàn bộ tiền hụi cho ông Tới vào ngày 07 -4-2016. Khoảng tháng 3 năm 2017, chị Ph nói là mẹ chồng chị đã hốt một chân hụi vào ngày 25 - 12 - 2015 nhưng thật sự mẹ chồng chị không có hốt hụi. Hiện tại 04 chân hụi do mẹ chồng của chị tham gia do chị Ph làm chủ chỉ chết 01 chân, còn 03 chân hụi sống theo danh sách hụi do chị Ph tổng hợp. Dây hụi này còn bao nhiêu lần nữa mãn thì chị không biết. Chị không đồng ý theo yêu cầu của chị Ph.

- Theo anh Tiêu Thanh S trình bày: Anh thống nhất lời trình bày của vợ anh là chị K. Tuy nhiên, anh S có bổ sung thêm là anh nhớ chính xác mẹ anh (bà M) bị bệnh vào ngày 05 - 02 - 2016 (âm lịch) và sau đó bàn giao hụi lại cho vợ chồng anh trực tiếp giao dịch với chị Ph, khi đó vẫn còn nguyên 04 chân hụi sống. Sau đó, vợ chồng anh chị trực tiếp đi khui hụi và đóng hụi. Đến ngày 25 -3-2016, chị K mới bỏ hụi hốt và chị Ph giao hụi vào ngày 06 - 4 - 2017 với số tiền là 23.500.000 đồng. Từ đó về sau, vợ chồng anh chị không có hốt hụi thêm lần nào nữa. Hiện tại, trong 04 chân hụi tham gia của chị Ph, chị K chỉ hốt có 01 chân, còn lại 03 chân hụi sống. Do đó, đối với yêu cầu của chị Ph thì vợ chồng anh không đồng ý.

- Tại Biên bản làm việc ngày 12 - 9 - 2017, ông Tiêu Thanh Ph và bà Trần Ngọc M thống nhất trình bày: bà M có tham gia 04 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng do chị Ph làm chủ. Bà M là người trực tiếp tham gia nhưng trong danh sách hụi thì đề tên là “Hia Ph” là tên của ông Tiêu Thanh Ph. Đến ngày 04 - 02 - 2015 âm lịch, bà M bị bệnh nên giao lại toàn bộ việc khui hụi và đóng hụi cho anh S và chị K. Khi giao hụi thì toàn bộ 04 chân hụi còn sống, chưa hốt chân nào. Sau đó, ông bà có nghe nói chị K và anh S có hốt 01 chân, còn lại 03 chân sống.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Hồng Ph về việc yêu cầu chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M và ông Tiêu Thanh Ph trả số tiền nợ hụi là 5.260.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn là chị Lê Hồng Ph với bị đơn là chị Nguyễn Thúy K là “Tranh chấp nợ hụi” được quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, bị đơn có địa chỉ tại ấp TT, xã TH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau nên Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Xét về thời hiệu khởi kiện: Tại hồ sơ thể hiện chị Ph mở hụi 1.000.000 đồng/tháng vào ngày 25-9-2015 âm lịch, bà M và ông Ph tham gia 04 chân hụi. Sau đó, bà M bị bệnh nên giao việc khui hụi và đóng hụi lại cho con là anh S và chị K. Đến khoảng tháng 3 năm 2017, Chị Ph phát hiện là chị đã gom nhầm hụi của chị K nên hai bên xảy ra tranh chấp. Đến ngày 23 -5 -2017, chị Ph nộp đơn khởi kiện chị K, anh S, bà M và ông Ph được Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết. Do đó, việc khởi kiện của chị Ph đối với chị K, anh S, bà M và ông Ph là còn thời hiệu theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung tranh chấp của vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà M và ông Ph tham gia chơi 04 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng do chị Ph làm chủ, hụi mở vào ngày 25 - 9 - 2015 âm lịch là thực tế có xảy ra được các bên thừa nhận. Tuy nhiên giữa các bên tranh chấp trình bày có nhiều mâu thuẫn về thời gian hốt hụi, số lần hốt hụi, số tiền bỏ hụi hốt. Tòa án tiến hành xác minh thu thập các danh sách hụi mà hụi viên cung cấp thể hiện bà M và ông Ph (“Hia Ph”) có tham gia 04 chân hụi. Các danh sách theo dõi hụi của các hụi viên trong cùng dây hụi thì đều thể hiện là “Hia Ph” đã hốt hai chân hụi, trong đó có một chân hốt vào ngày 25-12-2015.

Qua xác minh thực tế và lấy ý kiến hụi viên chung dây hụi đều xác định khi tham gia hụi thì chị Ph có đưa danh sách hụi cho hụi viên theo dõi, trong danh sách hụi thì các hụi viên thấy có tên “Hia Ph” là chồng của bà M tham gia chơi 04 chân, các hụi viên xác định bà M trực tiếp đi khui hụi và hốt 01 chân hụi, sau khi bà M bị bệnh thì giao hụi lại cho chị K và anh S thì chị K có đi khui hụi và hốt tiếp 01 chân hụi nữa, việc bà M và chị K hốt hụi các tay em chơi hụi chung đều có biết và có chứng kiến trong các lần đi khui hụi chung với nhau. Các hụi viên cũng xác nhận là do thói quen của người dân địa phương nên từ trước đến nay khi chủ hụi giao tiền hụi cho các hụi viên thì không có làm biên bản giao nhận tiền mà chủ hụi chỉ kê ra giấy rồi đưa cho hụi viên đối chiếu. Vấn đề này, tại phiên tòa, chị K thừa nhận là khi chị Ph giao hụi cho chị thì hai bên không có làm biên bản giao nhận tiền. Do đó, chị Ph cho rằng chị không có giấy tờ chứng minh là chị có giao tiền hụi cho chị K là phù hợp với thực tế. Từ đó, có đủ cơ sở để xác định lời trình bày của chị Ph là có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Anh S cho rằng bà M bị bệnh vào ngày 05 -02-2016 (âm lịch), sau đó bà M mới giao hụi lại cho anh và chị K. Trong khi đó, qua làm việc với bà M và ông Ph vào ngày 12 - 9 - 2017 thì bà M cho rằng bà bị bệnh vào 04 - 02 - 2015 âm lịch, sau đó đã giao toàn bộ hụi tham gia của chị Ph làm chủ cho anh S và chị K trực tiếp khui hụi và đóng hụi. Lời trình bày của anh S và bà M có mâu thuẫn về mặt thời gian bà M bị bệnh, thời gian bà M giao hụi lại cho anh S và chị K nên không được xem là căn cứ để giải quyết vụ án.

Ông Ph tuy không trực tiếp tham gia hụi nhưng ông đứng tên trong danh sách hụi và việc bà M tham gia hụi do chị Ph làm chủ thì ông Ph có biết; trong thời gian này ông với bà M là vợ chồng, hiện tại quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông Ph đang tồn tại. Đối với anh S cũng không trực tiếp tham gia hụi sau khi bà M bị bệnh thì bà M có giao hụi lại cho anh và chị K, anh S nhiều lần trực tiếp đóng hụi cho chị Ph. Vào thời gian trên thì anh và chị K là vợ chồng, hiện tại quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh S đang tồn tại. Do đó, bà M, ông Ph, anh S và chị K đều có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ hụi theo phía yêu cầu của nguyên đơn.

[4] Đối với ông Tiều Thanh Ph và bà Trần Ngọc M, sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau tiến hành hòa giải tại Tòa án theo quy định tại Điều 205 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, ông Ph và bà M đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước không tiến hành hòa giải được vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án nhân dân huyện Cái Nước căn cứ vào Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và triệu tập ông Ph và bà M hợp lệ đến lần thứ hai với nội dung triệu tập ông Ph và bà M đến Tòa án nhân dân huyện Cái Nước để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng ông Ph và bà M vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với ông Ph và bà M.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những cơ sở nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị Ph cho rằng bà M và chị K đã trực tiếp hốt 02 chân hụi trong tổng số 04 chân hụi tham gia do chị làm chủ là có cơ sở chấp nhận. Do đó, chị Ph yêu cầu chị K, anh S, bà M và ông Ph trả cho chị số tiền nợ hụi tính từ ngày 05 - 12-2016 đến ngày xét xử sơ thẩm là 5.260.000 đồng, yêu cầu của chị có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 300.000 đồng buộc chị K, anh S, bà M và ông Ph phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 26; 35; 39; 147, 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Điều 357, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Hồng Ph đối với chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M, ông Tiêu Thanh Ph.

Buộc chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M, ông Tiêu Thanh Ph trả cho chị Lê Hồng Ph số tiền nợ hụi là 5.260.000 đồng (Năm triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M, ông Tiêu Thanh Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 300.000 đồng, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước khi án có hiệu lực pháp luật. Chị Lê Hồng Ph không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Chị Ph có dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 403.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003551 ngày 23 -5 -2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước. Chị Ph được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí nêu trên tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước khi án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm chị Ph, chị K, anh S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Ph, bà M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2017/DS-ST ngày 28/09/2017 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:84/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về