TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 83/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Trần Thế M (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 01 tháng 10 năm 1990 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc H và bà Nông Kim L; vợ là Bùi Thị T1 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 05/9/2020 đến nay. Có mặt.
- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Chí T2. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Thế M nghiện chất ma túy từ năm 2018 đến nay. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, Trần Thế M một mình đi đến một ngôi nhà bỏ hoang thuộc thôn T1, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua ma túy đem về sử dụng. Đến nơi, Trần Thế M gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ, tên, địa chỉ), người đàn ông đó bảo Trần Thế M bán ma túy cho ông ta và ông ta sẽ trả công là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng sau khi bán hết 16 (mười sáu) gói ma túy; giá bán mỗi gói là 100.000 (một trăm nghìn) đồng. Trần Thế M đồng ý, người đàn ông đó đưa cho Trần Thế M 01 (một) gói ni lon màu trắng bên trong có chứa 16 (mười sáu) gói ma túy và hẹn chiều quay lại lấy tiền bán ma túy và trả tiền công bán ma túy cho Trần Thế M; đồng thời người đàn ông đó đưa cho Trần Thế M 01 (một) điện thoại di động NOKIA để sử dụng và liên lạc. Sau đó người đàn ông đi đâu không rõ; Trần Thế M cầm gói ma túy cất vào túi quần, rồi đi bộ trên đường X thuộc khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn nhằm mục đích bán ma túy cho những người nghiện ma túy nhưng chưa kịp thực hiện thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt giữ.
Cơ quan điều tra đã thu giữ của Trần Thế M 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có 16 (mười sáu) gói giấy kẻ ô ly màu trắng, bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được niêm phong trong một phong bì thư ghi chữ “QT Trần Thế M”; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.
Tại Kết luận giám định số 267/KL-PC09, ngày 07/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất bột màu trắng đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,440 gam (đã trừ bì)”.
Tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Thế M về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố, vì muốn có tiền tiêu sài nên bị cáo đã nhận lấy gói ma túy để mang đi bán, bị cáo thừa nhận bản thân đã vi phạm pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thế M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thế M từ 02 năm đến 03 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, toàn bộ các vỏ bao gói; tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo không nói gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Trần Thế M đang trên đường đi bán trái phép chất ma túy cho những người nghiện ma túy. Tổ công tác đã thu giữ của Trần Thế M 16 (mười sáu) gói ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,440 gam (đã trừ bì). Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Thế M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội, nhưng chỉ vì để kiếm lời và có ma túy cho bản thân sử dụng, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2018 đến nay, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 28/10/2020 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì thư và toàn bộ các vỏ bao gói; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động bên trong gắn 01 (một) sim, là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vật không sử dụng được và vật dùng vào việc phạm tội.
[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Đối với người đàn ông đưa ma túy cho bị cáo bán, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, cơ quan điều tra không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.
[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thế M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Thế M 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 05/9/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,363 gam Heroine) được để trong 01 (một) phong bì thư niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Trần Thế M”, trên phong bì thư có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T4, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ vỏ bao gói.
3.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.
(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/11/2020).
4. Về án phí: Bị cáo Trần Thế M phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 83/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về