Bản án 83/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 83/2019/HS-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trương Văn H, sinh năm 1996 tại Trần Văn T, Cà Mau; nơi thường trú: khóm 4, thị trấn S, huyện Trần Văn T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền sự: 01 lần. Ngày 17/5/2016, bị Trưởng Công an thị trấn S, huyện Trần Văn T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và phạt số tiền 750.000đ, bị cáo đã nhận quyết định xử phạt ngày 18/5/2016 nhưng chưa nộp phạt; tiền án: không; nhân thân: đã bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa có án tích; bị tạm giữ từ ngày 23/12/2018 đến ngày 29/12/2018 thì bị bắt, tạm giam cho đến nay (có mặt).

2. Họ và tên: Trần A H1 (tên gọi khác: Trần A Q), sinh ngày 09/9/1999 tại Đ, Cà Mau; nơi thường trú: ấp N, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nơi tạm trú: khóm 6B, thị trấn S, huyện Trần Văn T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: ngư phủ; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Trần Thị T (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền sự, tiền án: không; nhân thân: chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa có án tích; bị tạm giữ từ ngày 23/12/2018 đến ngày 29/12/2018 thì bị bắt, tạm giam cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/12/2018, Tổ công tác đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển kết hợp với Đội điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cà Mau và Công an phường 9, thành phố Cà Mau tiến hành bắt quả tang Trương Văn H, Trần A H1y tại trước nhà thờ Tin Lành thuộc khóm 2, phường 9, thành phố Cà Mau đang cất giữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ gồm:

Thu giữ bên trong túi áo bên trái phía trước của H 01 bịch nylon bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt dạng rắn và thu giữ trong túi quần Jean bên phải phía trước của H1 01 bịch nylon bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt dạng rắn, tất cả đều được niêm phong kín trong 02 phong bì hình chữ nhật có chữ ký của H và H1. Đồng thời, thu giữ 01 điện thoại di động màu vàng nhạt, bên ngoài có chữ OPPO đã qua sử dụng có sim số 0823280028 cùng số tiền 300.000đ và 01 giấy CMND của H; thu giữ 01 điện thoại di động màu đen, bên ngoài có chữ VIVO đã qua sử dụng có sim số 0332857281 cùng 01 xe máy hiệu EXCITER biển số 69C1- 03772 đã qua sử dụng của H1.

Tại Kết luận giám định số: 88/GĐMT-PC09 ngày 25/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận:

- Gói 1: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,449 gam, loại Methamphetamine.

- Gói 2: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,394 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 22/12/2018, H1 đến bến xe buýt thị trấn S gặp người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) mua bịch ma túy với giá 300.000đ rồi bỏ vào túi quần Jean bên phải phía trước cất đến khoảng 08 giờ ngày 23/12/2018, H1 gặp H hỏi H có đi lên thành phố Cà Mau mua ma túy không thì H trả lời có nên H1 đi mượn xe máy biển số 69C1-03772 của anh Đào Tấn Lợi chở H đi. Trên đường đi, H1 đưa bịch ma túy cho H xem và rủ sử dụng những H không sử dụng nên H1 cất giấu vào trong túi quần, tiếp tục điều khiển xe chạy đi đến khách Sạn Công Thành thuộc phường 9, thành phố Cà Mau vào trong hẽm thì H điện thoại cho người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) thì người này đi ra kêu H và H1 lên gác hỏi mua bao nhiêu ma túy, H trả lời mua với số tiền 1.800.000đ thì người này đồng ý bán và đưa bịch ma túy cho H, H trả tiền. Sau đó, H bỏ vào túi áo bên trái và kêu H1 chạy xe đi về thị trấn S để sử dụng thì bị lực lượng Công an đến bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Cáo trạng số: 88/CT-VKS ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã truy tố các bị cáo Trương Văn H, Trần A H1 về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; Về vật chứng, tịch thu tiêu hủy mẫu vật được hoàn lại sau khi trích giám định; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động màu vàng nhạt, bên ngoài có chữ OPPO đã qua sử dụng có sim số 0823280028 thu giữ của bị cáo H. Đối với người đàn ông bán ma túy cho H1, người thanh niên bán ma túy cho H do không rõ họ tên, địa chỉ nên Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tách ra, giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Các bị cáo thống nhất với luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì khác và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên có cơ sở để xác định vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/12/2018 tại trước nhà thờ Tin Lành thuộc khóm 2, phường 9, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau các bị cáo Trương Văn H, Trần A H1 đã và đang cất giữ trái phép chất ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng 1,449 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo Trần A H1 còn cất giữ 0,394 gam chất ma túy cũng loại Methamphetamine trong túy quần Jean bên phải nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Việc cất giữ chất ma tuý trên của các bị cáo là không hợp pháp, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và biết được tác hại của ma tuý nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Hơn nữa, khối lượng ma túy các bị cáo tàng trữ theo kết luận giám định thuộc tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bởi chính tác hại của ma tuý nó gây ức chế về thần kinh, tạo ảo giác mạnh cho người sử dụng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi, là mầm móng cho việc lây lan bệnh tật, gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội khác đặc biệt loại tội phạm này, hiện ngày càng gia tăng, mức độ thực hiện ngày càng tinh vi và số lượng ma túy mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ngày càng nhiều trong đó có cả đối tượng nghiện ma túy trực tiếp tham gia, thực hiện hành vi phạm tội với mức độ quyết liệt, táo bạo đang được báo, đài đưa tin và dư luận xã hội lên án. Đồng thời, việc phòng chống loại tội phạm này cũng rất khó khăn và nguy hiểm, nên cần xử lý thật nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, sống có ích cho gia đình, cho xã hội và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đối với các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H1 có nhân thân tốt (chưa tiền án, tiền sự), riêng bị cáo H có nhân thân xấu; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo là phù hợp.

Với đánh giá tại các đoạn [1], [2] và [3] nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, cấu kết chặt chẽ vai trò của từng bị cáo. Tuy nhiên, ngoài phải chịu chung khối lượng ma túy tàng trữ cùng bị cáo H, thì bị cáo H1 còn phải chịu khối lượng ma túy do bị cáo tàng trữ riêng còn bị cáo H đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không biết sửa đổi lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên tính chất, mức độ thực hiện tội phạm của bị cáo Hiếu nguy hiểm hơn so với bị cáo H1. Vì vậy, mức hình phạt được áp dụng đối bị cáo H phải cao hơn so với bị cáo H1 là hợp lý. Do đó, mức hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị là có căn cứ, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.

[4] Về vật chứng của vụ án, Cơ quan giám định đã hoàn lại hai phong bì niêm phong sau khi trích giám định số 88-GĐMT-PC09 ngày 25/12/2018 nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động màu vàng nhạt, bên ngoài có chữ OPPO đã qua sử dụng có sim số 0823280028 thu giữ của bị cáo H. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, chứng minh được bị cáo dùng vào việc thực hiện tội phạm nên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với các tài sản khác, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã xử lý trong quá trình điều tra, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, giải quyết. Đối với đối tượng bán ma túy cho các bị cáo, hiện không rõ họ tên và địa chỉ nên không mời làm việc được. Do đó, Kiểm sát viên đề nghị tách ra, giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau là phù hợp.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP.Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm, các bị cáo phải chịu theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố các bị cáo Trương Văn H, Trần A H1 (Trần A Q) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trương Văn H 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2018.

Xử phạt bị cáo Trần A H1 (Trần A Q) 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2018.

- Về vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy hai phong bì niêm phong sau khi trích giám định hoàn lại số 88-GĐMT-PC09 ngày 25/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu vàng nhạt, bên ngoài có chữ OPPO đã qua sử dụng có sim số 0823280028 thu giữ của bị cáo H.

- Về án phí:

Án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo phải chịu số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng, chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về