TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 83/2019/HS-PT NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 79/2019/TLPT-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Trần Văn T1 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Thới B
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Văn T1 sinh năm 1989 tại huyện Thới B. Nơi cư trú: Ấp 7, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Chưa biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Hiệp và bà Lâm Thị Luyến, chưa có vợ con; tiền án: không; Tiền sự: có 04 tiền sự gồm: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC ngày 14 tháng 01 năm 2017 của Công an xã Tân L B xử phạt T1 2.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 35/QĐ-XPHC ngày 23 tháng 7 năm 2018 của Công an xã Tân L B xử phạt T1 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPHC ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Công an huyện Thới B xử phạt T1 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày 27 tháng 10 năm 2018 của Công an xã Tân L B xử phạt T1 750.000 đồng về hành vi đánh nhau; bị cáo chưa nộp tiền phạt đối với các quyết định nêu trên (bị cáo tại ngoại có mặt).
- Bị hại:
+ Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Ấp 8, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau. (không triệu tập)
+ Ông Vương Văn P, sinh năm 1946. Nơi cư trú: Ấp 9, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau. (không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tò a, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 07/8/2018, Trần Văn T1 và đối tượng tên Đức (chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể) điều khiển xe mô tô hiệu Wave đến nhà ông Nguyễn Văn T2 ở Ấp 8, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau để trộm cá sấu con. Đức trực tiếp vào nhà ông T2 bắt trộm cá sấu, còn T1 ở ngoài canh đường. Đức đem cá sấu ra xe thìbị ông T2 phát hiện nên truy hô cho mọi người xung quanh đến vây bắt. Lúc này, T1 khởi động xe chở Đức chạy qua cầu Quang Trung để ra Quốc Lộ 63 tẩu thoát, chạy được một đoạn thì ông Tô Văn Gán ở gần đó dùng cây ném trúng vào Đức làm xe chao đảo và rớt lại túi lưới bên trong có chứa 03 con cá sấu con, sau đó Đức và T1 đã chạy thoát. Ông T2 kiểm tra thì phát hiện bị mất 23 con cá sấu con (trong đó có 03 con cá sấu con, quá trình tẩu thoát Đức, T1 làm rớt lại) và trình báo chính quyền địa phương đến lập biên bản.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐĐGTS ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thới B đã tiến hành định giá đối với xác định giá trị của 23 con cá sấu con là 7.130.000 đồng.
Quá trình điều tra, T1 thừa nhận đã trộm của ông T2 23 con cá sấu nêu trên. Đồng thời bị cáo khai nhận cũng trong tháng 7 năm 2018, bị cáo và đối tượng tên Sơn Đoàn (chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể) đã thực hiện hành vi trộm cắp 06 con cá sấu con của ông Vương Văn P thuộc Ấp 9, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 11/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản xác định giá trị của 06 con cá sấu con là 1.710.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhâ n dâ n huyện Thới B quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự:
Phạt bị cáo Trần Văn T1 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phívà quyền kháng cáo theo pháp luật quy định.
Ngày 02 tháng 5 năm 2019, bị cáo Trần Văn T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Bị cáo Trần Văn T1 có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nên với hành vi trộm 06 con cá sấu con của ông Vương Văn P thuộc Ấp 9, xã Tân L B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau vào tháng 7 năm 2018 được định giá là 1.710.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đến ngày 07/8/2018, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm 23 con cá sấu con của ông Nguyễn Văn T2 được định giá là 7.130.000 đồng. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị cáo lấy trộm 02 lần là: 8.840.000 đồng.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Thới B xét xử bị cáo Trần Văn T1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có nhiều tiền sự về tội trộm cắp tài sản, cũng như các tệ nạn xã hội khác như: Đánh nhau, sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa chấp hành các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà cò n tiếp tục vi phạm pháp luật hình sự. Tại lần phạm tội này, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần. Tại lần lấy trộm tài sản của ông P, bị cáo không bị bắt quả tang mà do bị cáo tự khai báo hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Á n sơ thẩm không áp dụng là có thiếu xót. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo không có thiện chíkhắc phục hậu quả cho các bị hại. Dùbị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới nhưng với hình phạt 09 tháng tùlà đã tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
[4]. Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị nên không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T1;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Thới B;
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T1 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tùtính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Về án phí:
Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Văn T1 phải nộp 200.000 đồng.
Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Trần Văn T1 phải nộp 200.000 đồng.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 83/2019/HS-PT ngày 26/06/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 83/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về