Bản án 83/2017/HS-ST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 83/2017/HS-ST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28/12/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2017/TLST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2017/HSST-QĐ ngày 04 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

NÔNG VĂN B, sinh năm 1970, tại: Huyện H, tỉnh Cao Bằng. Nơi cư trú: Buôn A, xã K, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 04/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn T (đã chết) và bà Đàm Thị T (đã chết); có vợ là Hứa Thị Ơ (đã chết) và 02 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 15/6/2017, có hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk. Từ ngày 13/6/2017 đến ngày 18/6/2017, có hành trộm cắp tài sản tại địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, bị Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01(một) năm tù theo Bản án số 44/2017/HSST ngày 22/9/2017. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Đắk Trung tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Thái Quốc T- Luật sư, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai, cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1989. Có mặt. Nơi cư trú: Thôn Z, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm1977. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn M, xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai.

- Người tham gia tố tụng khác: Người phiên dịch tiếng Tày: Bà Vương

Thị N, Cán bộ hưu trú, thị trấn Chư Sê, Chư Sê, Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 00 phút ngày 16/6/2017, Nông Văn B điều khiển xe mô biển kiểm soát 47K4 – 6XXX đi đến quán cơm “T” ở thôn Z, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai để ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, Nông Văn B nhìn thấy chiếc xe mô Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81P1 – 18XXX của anh Nguyễn Mạnh H đang để ở trước sân, không có ai trông coi, trên xe có chìa khóa nên đã nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. B đi lại chỗ chiếc xe mô tô bật chìa khóa, sau đó điều khiển đến tiệm sửa xe của chị Nguyễn Thị T, trú tại thôn M, xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai nói: “cho gửi nhờ xe mô tô 02 tiếng để đi lấy xe cày” thì chị Nguyễn Thị T đã đồng ý. Sau đó, Nông Văn B đón xe đi nhờ đến quán cơm “T” để lấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47K4 – 6XXX. Khi đi đến quán cơm “T” thì Nông Văn B bị mọi người bắt giữ, giao cho Công an huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai giải quyết nhưng Nông Văn B không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nên Công an huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã trả tự do cho Nông Văn B. Đến ngày 16/6/2017, Nông Văn B đến địa bàn thị xã H, tỉnh Đắk Lắk trộm cắp xe mô tô thì đã bị Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt giữ. Ngày 7/8/2017, chị Nguyễn Thị T đã giao nộp  chiếc xe mô Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81P1 – 18XXX cho Công an xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai. Đến ngày 29/9/2017, Nông Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 02/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyệnChư Sê, tỉnh Gia Lai, kết luận: Chiếc xe mô Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81P1– 18XXX (đã qua sử dụng) trị giá 14.000.000 đồng.Tại Bản cáo trạng số 73 CT-VKS ngày 15/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nông Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 51Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 01 năm tù tại Bản án số 22/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung của cả hai bản án từ 24 đến 30 tháng tù; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sátnhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị.

Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào lúc 13 giờ 00 ngày 16/7/2017, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu Nông Văn B đã lén lút trộm cắp xe môYamaha Sirius, biển kiểm soát 81P1 – 18XXX trị giá 14.000.000 đồng của anh Nguyễn Mạnh H nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi đó của Nông Văn B đã đủ yếu tố cấu thành tội“Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1Điều 138 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ sở hữutài sản của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, trong thời gian từ ngày 13/6/2017 đến ngày 18/6/2017 bị cáo liên tiếp thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản ở nhiều địa bàn khác nhau, trong đó có hành vi đã bị Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 (một) năm tù. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, bị cáo là lao động chính trong gia đình, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1,2 Điều 46 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần mức hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4]. Đối với hành vi trộm cắp xe mô tô của Nông Văn B từ ngày 13/6/2017 đến ngày 18/6/2017 ở địa bàn thị xã H, tỉnh Đắk Lắk, đã bị Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ xử phạt 01 (một) năm tù tại Bản án số 44/2017/HSST ngày 22/9/2017 và hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Đắk Trung, tỉnh Đắk Lắk. Xét thấy, cần áp dụng Điều 51 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung của hai bản án là đúng quy định pháp luật.

[5]. Đối với hành vi trộm cắp xe mô tô của Nông Văn B ngày 15/6/2017 ở địa bàn thành phố T, tỉnh Đắk Lắk. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk phối hợp, giải quyết nhưng chưa xác định được người bị hại. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau nên miễn xét.

[6]. Đối với chị Nguyễn Thị T là người đã cho bị cáo gửi nhờ xe nhưng bản thân chị không biết đó là tài sản do phạm tội mà có. Do đó, cơ quan Cảnhsát điều tra, Công an huyện Chư Sê không đề cập xử lý là đúng quy định pháp luật.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại; tạiphiên tòa, bị hại anh H không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nông Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo 13 (Mười ba) tháng tù.

Áp dụng Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp với hình phạt 01 (một) nămtù tại Bản án số 44/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung của cả hai bản án là 25 (Hai mươi lăm) tháng tù; thời hạn tù được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam(18/6/2017.)

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Xử buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, bị hại có quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường và hình phạt đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản ản hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

386
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2017/HS-ST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:83/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về