TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 83/2017/HSST NGÀY 20/11/2017 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 20 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Duy Tiên xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 76/2017/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2017/QĐXX-HSST ngày 07 tháng 11 năm 2017 đối với:
* Bị cáo: Bùi Anh D, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện U, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Bố: Bùi Văn Nh và mẹ: Nguyễn Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Ngày 15/9/2015 bị Tòa án quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến ngày 16/5/2017 được ra trại về địa phương; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 12/3/2012, bị Công an huyện Ứng Hòa - Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về lĩnh vực an ninh trật tự, ngày 12/3/2012 đã chấp hành xong; Bị tạm giữ từ ngày 17/7/2017 đến ngày 20/7/2017 chuyển sang tạm giam. Bị cáo tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Người bị hại: chị Lò Thị Ch, sinh ngày 03/7/2000; Địa chỉ: Thôn B, xãA, huyện M, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
* Người đại diện hợp pháp cho bị hại: ông Lò Văn B, sinh năm 1957 (là bố đẻ của chị Ch); địa chỉ: Thôn B, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
* Người bảo vệ quyền lợi cho bị hại: ông Nguyễn Đình Thi - Luật sư thuộc Công ty Luật Hà Nam; có mặt.
* Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn Nh, sinh năm 1972 (có mặt) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971 (có mặt). Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện U, thành phố Hà Nội
* Ngƣời làm chứng:
- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1986 (Có mặt); Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1989 (Vắng mặt); Anh Nguyễn Tuấn S, sinh năm 1993 (Có mặt); Anh BùiHữu Ch, sinh năm 1996 (Có mặt); Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1988 (Có mặt); Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện U, thành phố Hà Nội
- Anh Hoàng Đình Ph, sinh năm 1996 (Vắng mặt); Địa chỉ: Thôn Nh, xã Nh, huyện K, tỉnh Hà Nam
- Anh Trần Văn S, sinh năm 1993 (Có mặt); Địa chỉ: Thôn M, xã Đ, huyện U, thành phố Hà Nội.
- Chị Bùi Thị G, sinh năm 1982 (Vắng mặt); Địa chỉ: Thôn Ch, xã D, huyện D, tỉnh Hà Nam
- Anh Bùi Thanh X, sinh năm 1981 (Vắng mặt); Địa chỉ: Tổ 11, phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Hà Nam
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 13/6/2017, Bùi Anh D cùng các anh Nguyễn Văn Th, Nguyễn Tuấn S, Bùi Hữu Ch và Nguyễn Ngọc T đến quán Karaoke Zidan ở thôn Ch, xã D, huyện D, tỉnh Hà Nam của gia đình chị Bùi Thị G hát tại phòng Vip 7 trên tầng 02 của quán. Khoảng 20 giờ cùng ngày, anh Trần Văn S cùng anh Nguyễn Văn H đến hát cùng. Nhóm của D yêu cầu có nhân viên nữ vào rót bia, bấm bài nên chị G gọi điện thoại cho anh Bùi Thanh X nhờ gọi cho một nhân viên nữ đến quán, anh X đồng ý và gọi điện thoại bảo anh Hoàng Đình Ph đến phòng trọ của mình ở Nhật Tựu - Kim Bảng chở chị Lò Thị Ch đến quán Zidan. Khoảng 21 giờ cùng ngày, chị Ch lên phòng Vip 7 để rót bia, bấm bài phục vụ khách. Khi hát được khoảng 15 phút, D rủ chị Ch ra ngoài nói chuyện cho thoáng. Sau đó, D cầm tay kéo chị Ch vào phòng Vip 5 rồi đóng cửa lại. Thấy vậy, chị Ch định mở cửa để chạy ra ngoài thì D ra chặn cửa và kéo chị Ch lại. Chị Ch giằng co với D thì D đẩy chị Ch nằm ngửa xuống ghế sô pha trong phòng rồi nằm đè lên người chị Ch. Chị Ch tiếp tục la hét, van xin thì D nói:“Cô cứ hét đi, có ai cứu được cô không”, sau đó tay phải của D giữ hai cổ tay chị Ch, tay trái cởi áo rồi giật mạnh váy của chị Ch làm chiếc váy bị hỏng khóa và rách ra. Tiếp đó, D tự cởi quần áo của mình và tiếp tục nằm đè lên người chị Ch. D dang hai chân chị Ch ra rồi tay trái cầm dương vật đang cương cứng của mình ấn vào trong âm hộ của chị Ch để quan hệ tình dục, được khoảng 05 phút thì D xuất tinh vào trong âm hộ chị Ch. D mặc quần áo của mình lại và đi xuống quầy lễ tân mượn chị Bùi Thị G 01 chiếc quần đùi mang lên phòng Vip 5 cho chị Ch mặc do chiếc váy của chị Ch đã bị rách. Mặc quần áo xong, D và chị Ch cùng đi xuống quầy lễ tân. Thấy chị Ch khóc, chị G hỏi nhưng chị Ch không trả lời, còn D nói: “Bọn em yêu nhau, chị cứ kệ bọn em”, sau đó D đưa cho chị Ch 500.000đ, chị Ch không cầm tiền thì D lớn tiếng “Có cầm không” nên chị Ch cầm tiền D đưa. Do nhóm của D không đủ tiền thanh toán nên D để lại giấy phép lái xe và hẹn chị G hôm khác sẽ đến thanh toán sau. Một lúc sau, anh Hoàng Đình Ph đến đón chị Ch về, trên đường đi thấy Ch khóc nên anh Ph hỏi chuyện thì chị Ch kể lại toàn bộ sự việc như trên cho anh Ph nghe, thấy vậy anh Ph liền điều khiển xe mô tô quay lại quán để chị Ch chỉ ai đã hiếp dâm mình. Đến nơi, anh Ph nói “Mày chỉ tao xem thằng nào”, thấy anh Ph lớn tiếng nên Bùi Hữu Ch liền xông vào đá một nhát vào mặt làm anh Ph bị ngã và bỏ chạy. Sau đó, nhóm bạn của D đi về, còn D trốn khỏi địa phương.
Tang vật thu giữ: Thu tại hiện trường phòng hát Vip 5 của quán Karaoke Zidan 01 váy ngắn màu đỏ bị rách, trên cạp váy có chữ Q.T.G; Thu mẫu dịch màu hồng trên sàn nhà trong phòng hát niêm phong trong phong bì ký hiệuM11; Thu mẫu dịch màu trắng trên sàn nhà trong phòng hát, niêm phong trongphong bì ký hiệu M12; Chị Bùi Thị G giao nộp 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 330140026812 cấp cho Bùi Anh D; Chị Lò Thị Ch giao nộp 01 chiếc quần lót, niêm phong trong phong bì ký hiệu M2. Ngoài ra còn thu một số mẫu vật phục vụ công tác giám định.
Kết luận giám định pháp y về tình dục số 20/TD ngày 16/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam: “Trên cơ thể Lò Thị Ch không thấy tổn thương do tác động ngoại lực; Bộ phận sinh dục nữ phát triển bình thường, thành âm hộ hai bên sung huyết; Màng trinh hình cánh hoa, có điểm rách cũ tại vị trí 05 giờ. Có hình ảnh xác tinh trùng trên phiến đồ âm đạo”.
Kết luận giám định pháp y về tình dục số 27/TD ngày 19/7/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam: “Trên cơ thể Bùi Anh D không có tổn thương do tác động ngoại lực; Bộ phận sinh dục nam phát triển bình thường, năng lực tình dục bình thường”.
Kết luận giám định số 3695/C54(TT3) ngày 06/9/2017 của Viện khoa học hình sự Bộ công an: “Trên mẫu dịch âm đạo ghi thu của Lò Thị Ch, chiếc quần lót ghi thu của Lò Thị Ch và trên các dấu vết ghi thu tại hiện trường đều là tinh trùng của Bùi Anh D”.
Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Bùi Anh D đã tự nguyện bồi thường cho chị Lò Thị Ch số tiền 25.000.000đ, các bên thống nhất giải quyết xong về trách nhiệm dân sự và không có yêu cầu gì khác.
Do thương tích của anh Hoàng Đình Ph là nhẹ, bản thân anh Ph không có yêu cầu gì nên không đặt ra để xử lý.
Cáo trạng số 80/CT- VKS ngày 19/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên đã truy tố Bùi Anh D về tội “ Hiếp dâm” theo khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: khoản 4 Điều 111; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Anh D từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đưa ra quan điểm về xử lý vật chứng và tuyên án phí đối với bị cáo.
Luật sư bảo vệ quyền lợi của người bị hại cho rằng bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 điều 46 mà chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra đối với người bị hại. Người bị hại và người đại diện đồng ý với ý kiến của luật sư không bổ sung gì thêm. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt ngoài ra không tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Duy Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và các chức danh tư pháp đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 13/6/2017 tại phòng Vip 5 quán Karaoke Zidan ở thôn Ch, xã D, huyện D, tỉnh Hà Nam của gia đình chị Bùi Thị G, Bùi Anh D đã có hành vi dùng vũ lực dùng tay đẩy chị Ch ngã, lấy tay giữ hai tay chị Ch, dùng người đè lên người chị Ch, giật mạnh làm rách váy của chị Ch để giao cấu với chị Lò Thị Ch, trái ý muốn của chị Ch. Thời điểm này chị Lò Thị Ch mới 16 tuổi 11 tháng 10 ngày.
[2] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, tổn hại tinh thần của người khác, đồng thời ảnh hưởng xấu trật tự trị an xã hội. Hành vi nêu trên của Bùi Anh D đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: bị cáo có nhân thân xấu; bị cáo cố ý phạm tội trong khi đã bị kết án, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa mặc dù có khai báo nhưng chưa thực sự thành khẩn, gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo do đó cân nhắc cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Từ nhận định trên xét thấy bị cáo vừa chấp hành hình phạt tù xong thời gian ngắn đã tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật, trong vụ án này người bị hại là người chưa thành niên là đối tượng được xã hội, pháp luật hết sức bảo vệ vì thế cần phải ấn định mức hình phạt đủ nghiêm khắc cách ly khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: các bên đã thống nhất giải quyết xong về trách nhiệm dân sự và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không đặt ra giải quyết.
[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 giấy phép lái xe có số 330140026812 mang tên Bùi Anh D, không liên quan đến việc phạm tội nênHĐXX xét trả lại cho bị cáo D.
Đối với 01 chiếc váy ngắn đã cũ màu đỏ, trên cạp váy có chữ Q.T.G; 01 hộp giấy kí hiệu M2 trong có chiếc quần lót đã cũ; 06 phong bì thư lần lượt có kí hiệu M1 trong có 10 sợi tóc và ba lọ nhựa, A1 trong có 10 sợi tóc, M11 trong có băng gạc, M12 trong có băng gạc, M13 trong có tập giấy ăn bám dính. Đều không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Anh D phạm tội “Hiếp dâm”.
Áp dụng: khoản 4 Điều 111; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bùi Anh D 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/7/2017.
2. Về vật chứng: Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự; điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị cáo Bùi Anh D: 01 giấy phép lái xe có số 330140026812 mang tên Bùi Anh D
- Tịch thu cho tiêu hủy: 01 chiếc váy ngắn đã cũ màu đỏ, trên cạp váy có chữ Q.T.G; 01 hộp giấy kí hiệu M2 trong có chiếc quần lót đã cũ; 06 phong bì thư lần lượt có kí hiệu M1 trong có 10 sợi tóc và ba lọ nhựa, A1 trong có 10 sợi tóc, M11 trong có băng gạc, M12 trong có băng gạc, M13 trong có tập giấy ăn bám dính.
(Đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/10/2017 giữa cơ quan Công an huyện Duy Tiên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duy Tiên).
3. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội. Buộc bị cáo Bùi Anh D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng);
Án xử kín sơ thẩm: Bị cáo, bị hại, người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 83/2017/HSST ngày 20/11/2017 về tội hiếp dâm
Số hiệu: | 83/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về